A Nương Trở Về - Full - Chương 3
14
Cha ta nhất quyết không chịu ký hòa ly thư.
Ông nói rằng dù nghĩ đến ân tình phu thê bao năm, ông cũng không thể để một nữ nhân yếu đuối như a nương, phải cô độc bơ vơ ngoài đời.
Cha nói, ông không nỡ.
A nương quay đi, lạnh lùng đáp:
“Sự si tình tự cho là đúng của ngươi. Một trái tim chia làm đôi, ai ngươi cũng bảo là sâu đậm không hối tiếc. Trình Phong, từ trước đến nay, ta thật sự đã xem thường ngươi.”
Cuối cùng, a nương dẫn ta rời khỏi Trình phủ, mang theo một đoàn của hồi môn lớn, chuyển đến một ngôi nhà trong thành Ngọc Kinh.
Người kể ta nghe, trong thế gian này, nữ nhân chịu rất nhiều thiệt thòi.
Nam nhân muốn bỏ vợ, chỉ cần tìm đủ cớ là được. Nhưng nếu nữ nhân muốn rời khỏi, lại phải được sự đồng ý của nam nhân.
“Vậy ở thế giới khác thì sao? Nếu nữ nhân muốn hòa ly, có cần nam nhân đồng ý không?”
A nương gật đầu:
“Nếu có lý do chính đáng, nam nhân phản bội nữ nhân, thì tất nhiên có thể thành công.”
Ta đột nhiên khao khát thế giới đó.
Không vì gì khác, mà bởi vì có một thứ gọi là công bằng.
Trước đây, a nương luôn thích dạy ta thêu thùa, may vá, hoặc học cầm kỳ thi họa.
Những gì tiểu thư khuê các cần biết, người đều nói phải dạy cho ta.
Chỉ để ta trở thành một nữ tử tài hoa.
Như vậy, trong thành Ngọc Kinh, ngày sau ta mới có thể tìm được một gia đình tốt để gả vào.
Khi ấy, ta thường làm loạn không chịu học.
Muốn cầm kỳ thi họa đều tinh thông, lại không thua kém nam tử trong thơ từ ca phú, thì từ nhỏ phải khổ luyện. Dù giữa trời đông giá rét cũng không được nghỉ.
Nhưng giờ đây, a nương trực tiếp vứt hết những thứ liên quan đến thêu thùa ra ngoài.
“Thêu thùa may vá, con chỉ cần biết tự vá y phục của mình là được.”
Ta chỉ vào bàn cờ và cây đàn bên cạnh. a nương liền gọi nhũ mẫu, đem chúng ném vào phòng củi làm chất đốt.
Ngoài những quyển sách dạy đạo lý làm người, tất cả những thứ khác đều bị người vứt bỏ.
“Mấy thứ đó, nói là muốn con trở thành một nữ tử có tài hoa. Nhưng cũng chỉ để làm vui lòng nam nhân. Nếu con không thích, vậy thì ta không ép con học nữa.”
Ta lại hỏi a nương:
“Vậy con nên học gì đây?”
A nương nhặt một cây gậy từ dưới đất, đưa cho ta:
“Học cách phản kháng khi người khác bắt nạt con.”
Ta khựng lại một chút, mãi vẫn không dám nhận lấy cây gậy trên tay người.
“Nhưng a nương, con là con gái mà.”
Từ nhỏ, ta đã được dạy rằng nữ nhân phải giữ gìn dáng vẻ đoan trang, cử chỉ nhã nhặn.
Chỉ cần nói lớn tiếng một chút thôi đã là không hợp quy củ.
Huống chi là cầm gậy để phản kháng.
A nương xoa đầu ta, tháo chiếc dây buộc tóc màu hồng nhạt mà ta yêu thích nhất từ trên búi tóc của ta, buộc nó vào cây gậy.
“Con hãy dùng cây gậy buộc dây hồng này mà phản kháng!”
A nương cười rạng rỡ dưới làn gió, đôi mắt dịu dàng của người lần đầu ánh lên sự kiên định.
Người khác gọi người là kỳ lạ.
Nhưng ta lại nghĩ, đây mới thật sự là cuộc đời của a nương.
15
Ngoài dạy ta cách phản kháng, a nương còn dạy ta nấu ăn và làm việc nhà.
“Khụ khụ… a nương, nhà chúng ta không phải có người hầu sao? Tại sao con nhất định phải học nấu ăn chứ?”
Ta chạy qua chạy lại trong bếp, khói làm khuôn mặt nhỏ nhắn của ta đen nhẻm, đến mức ta cảm giác khi mở miệng nói chuyện cũng có thể phun ra khói đen.
Ta ho khù khụ mấy tiếng, định dừng lại để hỏi a nương.
A nương ngồi trên ghế mây ở cửa, tay cầm một chiếc quạt nhỏ. Nghe ta lên tiếng, người quay đầu lại nhìn ta.
“Vậy nếu sau này nhà không còn người hầu thì sao?
“Nếu không có ai phục vụ, chẳng lẽ con không biết tự mặc quần áo, tự lo cơm ăn sao?
“Nếu con đói, không có người hầu bên cạnh hầu hạ, nhìn đồ ăn trước mắt mà chẳng biết làm gì, chẳng lẽ con phải ch.ết đói hay sao?”
Khi nói những lời này, a nương rơi vào trầm tư.
Ta nghĩ, người hẳn lại đang nhớ về ba năm đã qua.
Trước khi xuất giá, a nương cũng là tiểu thư được gia đình cưng chiều, chưa từng phải đụng tay làm việc nặng nhọc.
Nhưng khi đến thế giới kia, đúng như lời người kể, mọi thứ đều phải dựa vào chính đôi tay của mình.
Vậy nên, a nương cũng phải học cách nấu ăn.
Học cách sống sót.
Những điều người dạy ta hôm nay, chỉ để phòng khi trong tương lai, vì bất cứ lý do nào, nếu ta không còn là một tiểu thư, không còn những gia nhân hầu hạ bên cạnh.
Rồi đến một ngày chẳng còn ai bảo vệ ta, thì ta vẫn có thể dựa vào những gì mình đã học để sinh tồn, không cần bán rẻ bản thân hay đánh mất lòng tự tôn, vẫn có thể sống vững vàng trong thế gian này.
Đó mới là điều quan trọng nhất.
A nương mỉm cười.
Người hài lòng gật đầu:
“Uyên Nhi của ta, thật sự rất thông minh.”
16
Chỉ trong một tháng ngắn ngủi, ta đã học được những điều trước kia chưa từng học.
Từ nấu ăn, dọn dẹp, đến những điều cơ bản trong việc buôn bán, a nương ít nhiều đều dạy cho ta.
Người dạy ta điều mà người gọi là “đạo sinh tồn”.
Mỗi ngày lưng đau, vai mỏi, nhưng trong lòng lại cảm thấy rất thỏa mãn.
“Nhưng ngoài việc học những thứ này, điều quan trọng nhất là đây.”
A nương đưa tay chỉ vào trán ta, ánh mắt nghiêm túc hơn bao giờ hết.
“Những điều trước đây a nương dạy con, chỉ để bảo đảm rằng dù không dựa vào nam nhân, con vẫn có thể sống tốt trong thế gian này.
“Nhưng con vẫn nghĩ rằng lấy chồng là con đường duy nhất của nữ nhân, thì a nương có làm gì cũng không thể giúp được con.”
Giọng nói của a nương đầy nghiêm nghị, khiến ta cũng phải ngồi thẳng lưng, chăm chú lắng nghe từng lời người nói.
“Uyên Nhi, thế gian đều sẽ thay đổi, cuối cùng điều con có thể dựa vào, chỉ có chính bản thân mình.”
Ta hỏi a nương:
“Nhũ mẫu từng nói, chẳng phải phu quân là người mà nữ nhân có thể nương tựa sao?”
A nương kiên nhẫn giảng giải:
“Nếu sau này, phu quân của con là người có trách nhiệm, chính trực, đối xử với con một lòng một dạ, thì tất nhiên hai người có thể cùng nhau nâng đỡ, sống bên nhau đến bạc đầu.
“Nhưng nếu đối phương không phải là người đoan chính, thì con chỉ có thể tự dựa vào chính mình, tự tạo nên một cuộc đời cho riêng mình.
“Những tranh đấu trong hậu viện, tuyệt đối không phải là nơi mà Uyên Nhi của ta nên thuộc về.”
Ta nghe chỉ hiểu được đôi chút, nhưng vẫn cẩn thận ghi nhớ từng lời của a nương trong lòng.
17
Cha lại đến thêm vài lần nữa.
Lần nào ông cũng cầu xin a nương tha thứ, kể về những chuyện đã trải qua cùng người, nhắc đến tình cảm thanh mai trúc mã của hai người, nói rất nhiều lời để cố gắng lay động trái tim của a nương.
Mỗi lần nghe, a nương đều trầm mặc.
Ta hỏi người:
“Người vẫn còn yêu cha sao?”
Không hề do dự, a nương gật đầu.
“Tình cảm mười mấy năm, sao có thể chỉ một sớm một chiều mà xóa sạch được?”
Nhũ mẫu đã chứng kiến a nương trưởng thành, rồi lại nhìn ta khôn lớn. Bà bước đến bên cạnh người, ánh mắt đầy yêu thương:
“Nếu đã vậy, thật sự không thể tha thứ sao?”
Nhũ mẫu là người tốt.
Bà chưa từng học những điều mà a nương dạy, cũng chưa từng hiểu rằng phu quân không phải là trời, và nữ nhân cũng có thể tự tạo dựng cuộc đời riêng.
Bà dùng cách riêng của mình, vụng về yêu thương ta và a nương.
A nương cũng hiểu điều đó.
Vậy nên người nói với nhũ mẫu:
“Nhưng nếu tha thứ cho ông ấy, thì những đêm dài sau này, ta sẽ luôn nhớ đến hình ảnh trên chiếc giường đó, ông ấy đã từng ân ái cùng một nữ nhân khác, nhớ rằng họ từng cùng nhau bắt nạt Uyên Nhi của ta.
“Đây không phải là chuyện tha thứ một lần, mà là chỉ cần ta nghĩ đến, ta lại phải tha thứ.
“Nhưng, ta thật sự không làm được.”
Vậy nên, chi bằng từ đầu đã cự tuyệt.
Dù hiện tại vẫn còn buồn bã.
Đây là lời a nương đã lén nói với ta.
Người nói rằng, muốn có được gì đó, thì phải buông bỏ điều khác.
Con người không thể tham lam, vì trời xanh luôn công bằng.
A nương muốn bản thân không còn buồn khổ trong những năm tháng về sau, không còn phải đối mặt với người phu quân đã từng quên đi tình cảm của mình.
Vậy nên, dù còn yêu, người cũng quyết tâm buông tay.
Nhũ mẫu không khuyên nữa.
Bà chạy đến phòng quản lý sổ sách, kiểm kê lại tài sản của gia đình vài lần.
Sau đó, bà ôm lấy cuốn sổ dày cộp, đưa cho a nương:
“Nếu người đã quyết định, vậy về sau chúng ta ba người vẫn có thể sống những ngày tháng an vui.”
“Ừ, chúng ta ba người sẽ sống cùng nhau.”
A nương mắt đỏ hoe, nắm chặt tay ta và tay nhũ mẫu.
18
Không ai trong chúng ta ngờ được,
Vân Nhàn, người đã trở về thế giới của mình, lại đổi một gương mặt khác và quay lại nơi này.
Khi ấy, cha ta một lần nữa đến xin a nương tha thứ.
A nương không gặp ông, nên cha cứ đứng đợi ngoài cửa.
Mưa lớn trút xuống, làm toàn thân ông ướt sũng.
Nếu là ba năm trước, a nương hẳn sẽ thương cảm mà rơi lệ.
Nhưng a nương bây giờ, chỉ vừa bấm bàn tính vừa lạnh lùng cười nhạt:
“Dùng cách tự làm khổ mình để khiến ta mềm lòng, đây chính là phu quân mà ta đã dày công lựa chọn năm xưa sao?”
Cha đứng đợi hơn một canh giờ.
Không đợi được a nương, nhưng lại đợi được Vân Nhàn.
Nàng ta cũng toàn thân ướt sũng, chạy từ con phố xa đến, lao vào ôm cha, đưa tín vật định tình giữa hai người ra trước mặt ông.
Giọng nói đầy tình ý:
“Trình Phong, ta về nhà rồi.”
Cha thoáng sững sờ.
Nhưng rất nhanh, như nhận ra điều gì, ông nhận ra nữ nhân trước mặt chính là Vân Nhàn mà ông luôn mong nhớ.
Ông lập tức ôm nàng vào lòng.
Ngay trước cửa nhà của a nương, hai người thổ lộ nỗi tương tư và tình cảm dành cho nhau.
Ta trèo lên tường nhìn lén cảnh tượng ấy.
Chợt cảm thấy lời của a nương thật đúng:
“Si tình tự cho là đúng, nhưng lại ngang nhiên làm ra những chuyện thế này.”
Mắt của a nương, quả thực từng có lúc mù quáng.
Ta còn chưa kịp nghĩ thêm, thì đã bị a nương cầm cây gậy trúc đập ta rơi từ trên tường xuống.
“Nghe lén không phải thói quen tốt.”
A nương nắm tay ta.
Ta nghĩ người sẽ trách mắng ta, nhưng không ngờ a nương lại đẩy mở cánh cửa lớn, đẩy ta đứng trước cửa:
“Muốn xem thì cứ đường đường chính chính mà xem. Dù sao thì người cảm thấy xấu hổ cũng chẳng phải là Uyên Nhi của ta.”
Cha ta đang ôm Vân Nhàn, nhìn thấy cánh cửa đột ngột mở ra, thấy ta và a nương đứng ngay trước cửa chứng kiến mọi chuyện, cả người cứng đờ.
Buông tay không được, tiếp tục ôm cũng chẳng xong, lúng túng đến cực điểm.
“Ninh Chiêu, ta và nàng ấy, không phải… nàng đừng…”
Cha lắp bắp nói mãi, nhưng chẳng thốt được một câu trọn vẹn.
Ngược lại, Vân Nhàn đứng bên, vừa rồi còn rưng rưng cảm động, nay khi nhìn thấy a nương, tất cả cảm xúc ấy lập tức tan biến, thay vào đó là sự méo mó trên gương mặt.
“Hạ Ninh Chiêu, ngươi trở về thì sao? Hiện tại Trình Phong yêu ta. Ngươi đã sống ở thế giới hiện đại ba năm, hẳn phải biết rằng người không được yêu mới là kẻ thứ ba chứ?”
A nương nhìn nàng ta, như đang nhìn một trò hề:
“Đúng là ta đã nghe câu ấy. Nhưng chỉ những kẻ thứ ba mặt dày, không biết xấu hổ mới dám nói ra.”
Khuôn mặt Vân Nhàn tức đến xanh mét.
Ôi, a nương của ta, người thực chẳng hề nể mặt kẻ khác chút nào.
19
Cha đã dẫn Vân Nhàn rời đi.
Sau khi họ đi, nụ cười trên gương mặt của a nương dần tắt.
Người ở lại trong sân rất lâu, giữa trời đông giá rét, người nhảy một điệu múa mà trước kia mình yêu thích nhất.
Sau đó, a nương bước đến bên ta, nói:
“Nếu Vân Nhàn là một nữ nhân thật sự xuất sắc, có lẽ ta sẽ không đau lòng đến thế. Nhưng nay cha con chỉ khiến ta cảm thấy, trước kia ta thật sự đã mù quáng.”
Ta nói với a nương:
“Nhưng nữ nhân xấu xa ấy làm thơ rất hay, đến cả phu tử cũng khen ngợi.”
A nương tỏ vẻ hứng thú, hỏi ta đó là những bài thơ nào.
Ta nhớ lại và chọn vài câu mà mình yêu thích nhất:
“Trời sinh ta có tài ắt hữu dụng,
Nghìn vàng tiêu hết lại quay về.
“Ước sao có muôn ngàn nhà rộng lớn,
Che chở khắp nhân gian nghèo khó đều an vui!
“Ngàn dặm buồn thu thường làm khách,
Trăm năm bệnh tật một mình lên đài.
Gian nan căm hận sương tóc bạc,
Rượu đục dừng tay chẳng buồn cầm.”
Còn rất nhiều câu khác nữa, ta đều thấy rất hay.
A nương nghe xong thì bật cười.
“Uyên Nhi của ta, những câu này quả thực rất hay. Nhưng chẳng có câu nào là do nàng ta tự viết cả, đều là thơ của người xưa. Trộm lấy danh tác của cổ nhân, nàng ta đúng là chẳng chút xấu hổ.”
Không phải nàng ta tự viết?
A nương lại nói:
“Nếu con thích, ta có thể dạy con thêm nhiều bài thơ khác. Những câu thơ này đều là danh tác truyền lại ngàn đời, ta sẽ lần lượt nói cho con biết tên và tác giả của chúng.”
Vậy nên sau đó,
Ta biết rằng:
“Trời sinh ta có tài ắt hữu dụng,
Nghìn vàng tiêu hết lại quay về.”
Là của Lý Bạch, vị thi tiên nổi danh.
“Ước sao có muôn ngàn nhà rộng lớn,
Che chở khắp nhân gian nghèo khó đều an vui!”
và
“Ngàn dặm buồn thu thường làm khách,
Trăm năm bệnh tật một mình lên đài.
Gian nan căm hận sương tóc bạc,
Rượu đục dừng tay chẳng buồn cầm.”
đều là của Đỗ Phủ, bậc thi nhân lừng danh với chí lớn và tấm lòng cao cả.
Dù trước đó chưa từng nghe đến tên họ, ta vẫn kính trọng họ, vì họ đều là những người có hoài bão lớn và trí tuệ sâu rộng.
Ngoài những bài thơ và đạo lý này,
A nương còn dẫn ta vào sân, dạy ta cách kinh doanh buôn bán, nói rằng sau này những cửa hàng và ruộng đất của nhà họ Hạ, khi ta lớn lên, cũng phải học cách tự tay quản lý.
Chỉ khi kiếm được đủ bạc tiền, ngày tháng mới có thể vui vẻ.
A nương nói, đây là đạo lý chưa từng thay đổi, từ Đại Chu đến thế giới hiện đại ngàn năm sau.
Thì ra, tiền bạc lại quan trọng như vậy.
Ta lặng lẽ siết chặt trong tay mình mấy đồng bạc trắng.
Sau này, ta nhất định phải học thật chăm.