Cảnh Xuân Đang Đến - Chương 2
“Nhưng triều đình đã định tội nàng là công chúa Bắc Địch.” Ta cất lời.
Người tâm phúc kích động phủ nhận: “Tuyệt đối không thể!”
“Thế vì sao lần này đại bại?” Ta hỏi.
Hắn trầm giọng: “Là có nội gián đánh cắp binh thư.”
“Đã tra ra kẻ đó chưa?”
“Chưa.”
Lần đại bại này, ba mươi vạn đại quân tổn thất hơn một nửa, mất đi hai tòa thành. Triều đình phải thay tướng giữa trận, mới miễn cưỡng trấn định cục diện, thu hồi thành trì đã mất.
Tống Diệu Xuyên mang tội.
Có lẽ do hắn chinh chiến trăm trận mà sinh lòng kiêu ngạo, mới để xảy ra sai lầm lớn thế này.
Triều đình không chém đầu hắn, không tru diệt cả họ Tống, cũng không làm hại đến ta. Hoàng ân thực quá rộng rãi.
Ngày thứ chín hắn giả chết, ta sai người quẳng hắn ra sân.
Giữa tiết đông lạnh giá, băng dưới mái hiên dài như rèm cửa, hơi thở cũng hóa sương, rét buốt thấu xương tủy.
Ta tự tay hắt lên người hắn một thùng nước lạnh.
Hắn rốt cuộc cũng có phản ứng.
“Trước có Tôn Tẫn tàn phế mà bày mưu kỳ lược; Tư Mã Tử Trường bị tật mà viết nên sử ký tuyệt thế. Chàng chỉ mất đi một tay, thân thể vẫn còn lành lặn. Nếu đêm nay không c.h.ế.t rét ngoài sân, sáng mai hãy tự thu dọn bản thân, luyện kiếm bằng tay trái cho ta.”
Tống Diệu Xuyên lạnh cóng cả đêm.
Sáng hôm sau, hắn phát sốt.
Nhưng trong mắt hắn, rốt cuộc đã không còn lãnh đạm, mà chỉ còn phẫn nộ.
Ta cho hắn một viên Tử Tuyết Đan giúp hạ sốt.
Hắn phát tiết xong, thu dọn bản thân, thay y phục sạch sẽ, quỳ trước cha mẹ dập đầu nhận tội.
Hắn biết mình đã làm liên lụy đến bao huynh đệ theo hắn chinh chiến, làm khổ bách tính biên cương, khiến cả nhà họ Tống rơi vào cảnh khốn cùng.
Cha mẹ chồng không mắng nữa, chỉ bảo hắn:
“Nếu có oan khuất thì hãy đứng dậy báo thù. Đừng làm kẻ nhu nhược ch.ết đi, để lại vạn năm tiếng xấu cho nhà họ Tống.”
Tay phải của hắn,là do ta tự mình châm cứu.
Ta mời Lý Canh Điền, vị đại sư dùng đoản đao giỏi nhất, tới dạy hắn dùng tay trái cầm kiếm.
Ngày ngày cứ thế trôi qua.
Tới tháng ba năm sau, xuân ấm hoa nở, tay phải hắn mới cầm nổi đũa.
Hắn bỗng hỏi ta: “Nàng tên là Tô Tranh, đúng không?”
Ta chỉ cười nhẹ.
“Không phải.”
2
Tên ta là Tranh nhi.
Nhưng ta không gọi là Tô Tranh, thậm chí họ cũng không phải họ Tô.
Đại danh của ta là Vương Hằng.
Chuyện này, ta đã thành thật nói với Tống Diệu Xuyên.
Hắn nghe xong, sắc mặt thản nhiên, không lộ lấy nửa phần kinh ngạc, chỉ khẽ gật đầu:
“Nhớ rồi.”
Hắn lại hỏi ta:
“Vương Hằng, vì sao nàng gả cho ta?”
“Ý của mẫu thân ta.”
Hắn gật gù, giọng nhàn nhạt:
“Ta nhớ đêm trước đại hôn, ta phụng chỉ xuất chinh. Là do nhị đệ khoác y quan của ta mà hoàn thành hôn lễ. Sáu năm qua, sao nàng không rời đi?”
Ta lặng im.
Hắn tự đáp:
“Cũng là ý của mẹ chồng?”
“Không. Là ý ta.”
Hắn thoáng ngỡ ngàng.
Hắn đã từng là thiếu niên kiêu hùng chói sáng nhất kinh thành.
Mười ba tuổi ra trận, một tay vung đao nặng sáu mươi cân, chém đầu giặc lập công, danh chấn thiên hạ.
Hắn là thế tử Hi Bình Hầu phủ, là cháu của Thái hậu. Hắn thừa hưởng dung mạo mỹ miều từ mẫu thân, phong tư hiên ngang, chiến vô bất thắng, mưu trí vô song.
Trong những cuộc luận bàn thân thế nơi khuê phòng, danh tự của hắn không thể nào thiếu vắng.
Mà ta, thân phận cao quý, mẫu tộc hiển hách, mới có thể vượt qua muôn vạn nữ nhi, trở thành thê tử của Tống Diệu Xuyên.
Hắn nhẹ giọng:
“Nàng còn trẻ, có lẽ nên rời đi. Không cần cùng chúng ta chịu khổ.”
Ta hiểu, hắn đang thử lòng ta.
Ta không đáp.
Hắn lại hỏi:
“Lý sư phụ từng nói, không phải vì coi trọng gia thế của nàng, mà là coi trọng con người nàng, nên mới chịu dạy ta. Nàng làm sao mà quen được vị đao khách danh chấn thiên hạ ấy?”
Vấn đề này, ta trả lời.
“Con gái ông ấy sắp bệnh ch.ết, là ta cứu nàng.”
“Nàng tinh thông y thuật?”
Đây là một câu khẳng định.
Vì tay phải hắn có thể cầm đũa, chính là nhờ ta châm cứu mà thành.
Ta mỉm cười:
“Ta còn giỏi thêu nữa cơ.”
Hắn cũng khẽ cười.
Một nụ cười mỏng manh như gió lướt qua mặt hồ, chỉ gợn lên vài gợn sóng.
Đây là lần đầu tiên từ khi bị thương trở về, hắn nở nụ cười.
Chốn triều đình dậy sóng không ngừng. Bắc Địch lại quấy nhiễu biên ải.
Tướng quân thay thế Tống Diệu Xuyên bị thích khách gi.ết ch.ết, triều đình vì thế mà đau đầu.
Hoàng thượng càng căm hận hắn, nhất mực cho rằng hắn đã thông đồng với địch, nuôi dưỡng Bắc Địch để giờ đây chúng trở mặt phản công.
Ngoài mối họa biên quan, triều đình còn loạn vì lũ gian thần tham ô bòn rút.
Trong hẻm Vạn Cảnh, ngày tháng cứ thế lững lờ trôi qua.
Tống Diệu Xuyên nhẫn nhịn, kiên trì luyện tập cánh tay trái cầm đao, đồng thời phục hồi tay phải.
Ta khai khẩn một mảnh vườn nhỏ sau Trữ Trúc Đường.
Hắn bảo:
“Đám nha hoàn bà tử cày đất nông, trồng trọt chẳng nên hồn.”
Thế rồi chính hắn cầm cuốc, đào xới cả ngày, mồ hôi nhễ nhại.
Kể từ ngày đó, mỗi buổi chiều, chúng ta cùng nhau tản bộ ngoài hẻm, tùy ý trò chuyện những chuyện vụn vặt.
Nhà vẫn còn ruộng đất, cửa hàng, chuyện tiêu xài ăn mặc không thành vấn đề. Chỉ là, thân bằng cố hữu đều lánh xa.
Sau tết Đoan Dương, tay phải hắn có thể cầm được đao tám cân.
Mẹ chồng rất vui mừng, muốn đưa ta lên núi dâng hương tạ lễ.
Vốn dĩ tam thúc hộ tống, nhưng hắn lại bị bằng hữu gọi đi chơi.
Bằng hữu ấy có một muội muội, dung mạo xinh xắn, tính tình lanh lợi.
Mẹ chồng bảo tam thúc mau đi, đừng trì hoãn chuyện nhân duyên của mình.
Cuối cùng, chính Tống Diệu Xuyên nhận việc hộ tống chúng ta.
Hắn nói:
“Để ta đưa mẫu thân và Tranh nhi đi.”
Mẹ chồng càng thêm vui vẻ.
Nhưng ngày lên hương, trời oi bức đến khó chịu. Mẹ chồng sáng sớm đã không khỏe trong người.
Ta khuyên bà ấy: “Hay là không đi nữa?
Mẹ chồng lắc đầu:
“Không được. Đã hứa với Bồ Tát thì không thể nuốt lời.”
“Vậy để con lo.”
Cuối cùng chỉ còn ta cùng Tống Diệu Xuyên lên núi, dù có ghế mây để ngồi, được gia đinh khiêng đi, nhưng vẫn mồ hôi ướt đẫm cả người.
Chẳng bao lâu sau khi lên núi, trời bỗng nổi sấm sét, mưa lớn trút xuống như thác đổ.
Mưa đầu hạ thường đến rồi đi rất nhanh, nhưng chẳng rõ vì cớ gì, cơn mưa này kéo dài suốt bốn canh giờ chưa dứt.
Phía tây nam đại điện của chùa bị sụp một góc, hậu viện cũng đổ vỡ cho nên không thể ở lại.
Trời đã chạng vạng, các vị khách hành hương bị hòa thượng khéo léo khuyên xuống núi.
“Không còn chỗ ở nữa rồi.”
“Phòng ốc hư hỏng, nước mưa thấm dột khắp nơi, chẳng ai ngủ lại được trong Phật đường được nữa.”
Ngay cả chúng ta cũng phải rời đi.
Tống Diệu Xuyên nhìn con đường núi lầy lội bị mưa cuốn trôi, quay sang ta bảo: “Gia đinh khiêng kiệu mây sẽ không vững.”
Chỉ cần trượt chân một chút, ta e rằng cả người lẫn ghế sẽ lăn thẳng xuống vực.
Mà nếu tự mình đi, e cũng không thể vững bước trên con đường trơn trượt ấy.
Ta khẽ nhíu mày, hắn liền hỏi: “Nàng tinh thông y thuật, giỏi thêu thùa, vậy có biết võ không?”
Ta lắc đầu.
Hắn bỗng cười: “Lại đây, nương tử, để vi phu cõng nàng.”
Lần đầu tiên hắn nói giỡn cùng ta.
Ta cân nhắc, dù sao cũng phải đi, chỉ là do hắn cõng hay để gia đinh cõng mà thôi.
Ta trèo lên lưng hắn, cảm nhận bùn đất trơn trượt dưới chân. Không ít lần hắn cũng suýt ngã, song vẫn bước từng bước thận trọng.
Về sau, ta đã tự đi lại trên con đường này mấy lần, nhưng chưa từng thấy nó dài đến vậy.
Khi về đến hẻm Vạn Cảnh, trời đã tối đen.
Mẹ chồng đứng chờ ở cổng, không biết đã đợi bao lâu, đến nỗi vạt váy cũng ướt đẫm.
Chúng ta vào Như Trúc Đường thay y phục.
Trong lúc thay áo, ta lờ mờ nhận ra ống quần xanh của hắn lấm bùn, nhưng sắc bùn có vẻ không đúng lắm.
Hắn vào phòng tắm ở gian kế bên, mãi mới ra, ống quần căng phồng lên một cách bất thường.
“Qua đây.” Ta gọi hắn vào phòng ngủ của ta.
Hắn đứng trước cửa, bước chân thoáng do dự.
Phòng có hương an thần thoang thoảng, khiến sắc mặt hắn dần thư giãn.
Ta bảo hắn vén ống quần lên, hắn cũng làm theo.
Bắp chân bên trái bị đá núi cứa một đường dài và sâu, máu vẫn rỉ ra. Sau cơn mưa lớn, đá sắc như dao, vết thương này chẳng khác gì bị đao chém.
Hắn đã sơ cứu qua loa, hệt như cách quân sĩ băng bó trên chiến trường.
“Không sao, ta quen xử lý vết thương ngoài da.” Hắn nói.
Ta liền đáp: “Ta có thuốc cầm máu tốt hơn.”
Hắn để ta xử lý vết thương cho mình.
Làm xong, hắn ngẩn người trong chốc lát, sau đó đứng dậy, nói: “Ta về đây.”
Ta gật đầu.
Hắn xoay người rời đi, dáng vẻ có chút chần chừ.
Ta quay lưng lại, tiếp tục thu dọn hòm thuốc.
Từ hôm ấy, chúng ta quen thuộc với nhau hơn, như đôi chim én cùng trú dưới một mái hiên.
Thỉnh thoảng chuyện trò đôi câu, nhưng chưa bao giờ ta bảo hắn đến phòng ngủ, mà hắn cũng xem như chưa từng có chuyện ấy.
Cha mẹ chồng càng chưa từng đề cập đến vấn đề này của chúng ta.
Cho đến một ngày, xảy ra chuyện động trời ở trong phủ.
Một nha hoàn theo hầu ta đã lâu, vốn ngoan ngoãn quy củ, trong một khoảnh khắc bỗng mất trí mà lại lao vào chà lưng trong lúc Tống Diệu Xuyên đang tắm, còn vươn tay sờ soạng thân thể hắn.
Hắn chỉ phất tay một cái, quẳng thẳng nàng ta ra ngoài cửa sổ.
Nha hoàn ngã xuống sân, bất tỉnh hồi lâu mới tỉnh lại.
Mẹ chồng nghe tin liền lập tức đem bán nàng ta đi.
Từ đó, người trong Như Trúc Đường càng thêm quy củ, trong hẻm Vạn Cảnh chẳng ai còn nhắc đến việc ta và Tống Diệu Xuyên vốn là phu thê.
Sau hậu viện Như Trúc Đường vốn là hồ sen, sau này bị lấp để làm thao trường cho hắn.
Ngoài việc tự luyện tập và học đao pháp tay trái với Lý sư phụ, hắn cũng hướng dẫn mấy đệ đệ luyện võ, rèn luyện thân thể.
Vườn rau của ta cũng chỉ cách thao trường của hắn một bức tường.
Chiều đến, hắn và các đệ đệ luyện võ, còn ta thì dẫn theo một bà lão thô sử, tranh thủ lúc trời mát mà tưới rau.
Một ngày nọ, ta nghe tam đệ hỏi:
“Đại ca, nghe nói thiếp của huynh là mỹ nhân tuyệt sắc, văn võ song toàn, có thật không?”
Tam đệ tính vốn ngay thẳng, không biết giữ mồm giữ miệng.
Tống Diệu Xuyên trầm giọng: “Nàng ấy qua đời rồi. Nàng ấy không phải thiếp, mà là đại tẩu của đệ.”
Tam đệ bực dọc: “Đại tẩu của ta còn sống sờ sờ đây này, sao huynh lại trù ẻo người ta như vậy?”
Hai huynh đệ lời qua tiếng lại, tranh cãi không ngừng.
Tam đệ tuy tò mò tinh nghịch, nhưng cũng biết ra mặt bảo vệ cho ta.
Những năm qua, ta cùng bọn họ mới giống như một gia đình thân thuộc. Còn Tống Diệu Xuyên đã rời xa nhà suốt sáu năm, lại dường như xa lạ hơn với mọi người.
Đến bữa tối, ta nghe nói tam đệ đã đấm Tống Diệu Xuyên một cú.
Nhưng ta làm như chưa từng nghe gì chuyện gì.
3
Tháng Tám, kinh thành vào mùa quế nở, hương hoa lan tỏa khắp nơi.
Ngày Tết Trung Thu, cung Thái hậu ban xuống bánh trung thu và hoa quả.
Những kẻ mẫn tiệp trong chốn quan trường dần nhận ra điều lạ, bắt đầu có người lui tới hẻm Vạn Cảnh.
Ta khuyên cha mẹ chồng đóng cửa từ chối tiếp khách.
Cha chồng vốn là kẻ ăn chơi, dựa vào đường tỷ mới được phong tước, cả đời chưa từng làm quan. Mẹ chồng xuất thân danh môn thế gia, nhưng quanh năm quanh quẩn nơi khuê phòng.
Suốt sáu, bảy năm qua, ta hết lần này đến lần khác bày mưu tính kế cho Tống gia. Thái hậu từng nhiều lần khen ngợi ta, bởi vậy cha chồng cùng mẹ chồng luôn tin tưởng ta không chút nghi ngờ.
Nhưng người lớn thì dễ, đám tiểu bối lại chẳng chịu nổi cảnh tịch mịch.
Tam thúc muốn ra ngoài săn bắn.
Mẹ chồng hỏi ý ta.
Ta đáp:
“Tây giao có Mân Sơn, là sản nghiệp của thúc phụ con. Bình thường thúc cũng ưa săn bắn, trên núi nuôi nhiều thỏ rừng, gà rừng. Nếu mọi người muốn đi, con sẽ nói với thúc một tiếng.lại lao vào chà lưng
Thúc phụ ta là kẻ ăn chơi trác táng, chẳng có chí tiến thủ, tiêu tiền như nước. Nhưng đối với hàng cháu chắt, thúc lại rất tốt với chúng ta.
Ta sai tiểu tư truyền lời, thúc phụ quả nhiên sảng khoái đồng ý.
Ngày hai mươi bảy tháng Tám, cả nhà họ Tống đồng loạt lên ngựa xuất hành. Ta cùng hai vị tiểu cô chưa xuất giá ngồi xe ngựa, cũng muốn theo xem náo nhiệt.
Điều khiến ta bất ngờ nhất chính là – Tống Diệu Xuyên cũng muốn đi.
Tối qua, ta chỉ thuận miệng hỏi hắn một câu:
“Chàng có muốn cùng đi không?”
Hắn không hề chần chừ, gật đầu đáp:
“Được.”
Có lẽ, hắn cũng muốn thư giãn đôi chút.
Mân Sơn không quá cao, đỉnh núi cao nhất cũng chỉ tầm hai trăm trượng, nhưng địa thế trải dài, đủ để tung ngựa bắn cung.
Thúc phụ ta đã cho thả sẵn năm mươi con thỏ rừng, năm mươi con gà rừng và hai con hươu.
Hai vị tiểu cô ở trang trại dưới chân núi, cùng đám trẻ nhà nông hái quế, nhặt sen. Ta thì cưỡi một con ngựa, cầm cung nhẹ, định thử sức đi săn.
Tống Diệu Xuyên hỏi:
“Nàng giỏi cưỡi ngựa bắn cung?”
Tam thúc cười nói thay ta:
“Tẩu tẩu ta đánh mã cầu giỏi lắm.”
Ta chỉ cười:
“Cũng chỉ là trò tiêu khiển mà thôi.”
Hắn không nói gì, nhưng vẫn luôn đi theo ta không rời một khắc.
Sơn phong hiu hiu, hơi lạnh, thổi tung mái tóc ta, vô cùng dễ chịu.
Bỗng nhiên, hắn lên tiếng nói chuyện với ta:
“Phụ mẫu ta kể rất nhiều chuyện về nàng.”
Ta cười hỏi:
“Chắc chắn mẫu thân toàn khen ta, phải không?”
Hắn khẽ cười:
“Không tiếc lời tán thưởng. Bà nói nếu không có nàng, Tống gia sớm đã hai lần bị cuốn vào tranh đấu giữa các thế gia rồi.”
Ta chỉ đáp:
“Ta chỉ tận lực mà thôi.”
Hắn lại hỏi:
“Vì sao nàng không rời đi?”
Ta mỉm cười, nhàn nhạt đáp:
“Đợi chàng khỏi hẳn, khôi phục quan chức, Tống gia phục hồi tước vị, ta sẽ rời đi.”
Ánh nắng thu vàng óng xuyên qua tán cây, đổ từng vệt sáng loang lổ lên gương mặt hắn.
Trong khoảnh khắc ấy, nét mặt hắn bỗng trở nên tĩnh lặng lạ thường.
Một lát sau, hắn mới chậm rãi nói:
“Nàng thực sự tin ta có thể rửa sạch hàm oan?”
“Ta tin. Người bị oan, cuối cùng cũng sẽ được trả lại sự trong sạch.”
Giọng ta chắc nịch, không hề do dự.
Hắn bật cười. Dung mạo hắn vốn đã đẹp, màu da rám nắng lại càng khiến hắn thêm phần cương nghị, phong sương.
“Được. Ta cũng tin, Vương Hằng.”
Hắn gọi thẳng tên ta.
Đúng lúc này, một con hươu lao vụt qua. Hắn lập tức giương cung, bắn một mũi tên.
Tiếng tên xé gió vang lên, con hươu ngã quỵ sau gốc cây gần đó.
Ta khẽ gật đầu:
“Dùng tay trái bắn tên mà vẫn chuẩn xác như vậy.”
Hắn đáp:
“Ta vốn tập luyện từ nhỏ, hai tay đều có thể bắn tên.”
Hắn hơi ngửa đầu nhìn trời.
Xa xa, có một đàn chim nhỏ, có lẽ là nhạn bay về phương Nam.
Hắn lắp tên, chăm chú nhắm mục tiêu thật lâu, rồi buông dây cung.
Một bóng đen rơi xuống.
Hắn cười:
“Có chiến lợi phẩm rồi.”
Nói đoạn, hắn thúc ngựa đuổi theo.
Ta ở nguyên chỗ cũ, bắn được một con thỏ rừng, bảo tiểu tư theo sau nhặt về.
Tống Diệu Xuyên nhanh chóng quay lại.
Hắn đưa con mồi cho ta, điềm nhiên nói:
“Đã ch.ết rồi, nhưng vẫn còn tươi. Coi như trả nợ cho nàng vậy.”
Hắn trao cho ta một con nhạn béo tốt.
Hôn nhân lục lễ, “nạp cát” phải dùng nhạn.
Ta đón lấy, nhìn hắn một lúc lâu, mới nhẹ nhàng hỏi:
“Chàng còn nhớ chứ? Chàng từng gửi thư cho ta.”
Hắn thoáng sững người:
“Cứ nửa năm lại có một phong gia thư, nàng nói đến bức nào?”
Ta nghe xong, chỉ cười nhạt không nói gì, rồi đưa con nhạn cho tiểu tư mang theo.
Hắn đi theo sau, lại giải thích:
“Gia thư từ trước đến nay không phải ta viết, mà do quân sư viết thay.”
Ta gật đầu:
“Ta biết rồi.”
Ta nhận được bức thư ấy, chữ viết tuy có chút vội vàng, nhưng nét bút lại cứng cáp mạnh mẽ.
Là bút tích của chính hắn.
Có lẽ lúc đó đã xảy ra quá nhiều chuyện, còn lá thư ấy đối với hắn mà nói, chỉ là một chuyện nhỏ chẳng đáng nhớ tới làm gì.
…
Cuộc săn bắn hôm ấy, mọi người đều chơi rất vui.
Nhưng lúc hồi kinh, lại bất ngờ chạm mặt Thái tử.
Thái tử vi phục xuất thành, tựa như du xuân thưởng ngoạn.
Ta cùng Tống Diệu Xuyên và mọi người xuống xe, cúi người hành lễ.
Thái tử da trắng như ngọc, nụ cười ôn hòa dịu dàng: “Đi săn về à?”
Mọi người cùng đồng thanh đáp: “Dạ.”
Ánh mắt thái tử dừng trên người ta, nhẹ giọng bảo: “Tranh nhi, tay áo rách rồi.”
Ta cúi đầu nhìn, thấy ống tay áo bên trái bị cành cây cào rách một mảnh.
Ta không phát giác, Tống Diệu Xuyên luôn đi cùng cũng không nhận ra, thị nữ, tiểu tư theo xe hay cả tiểu thúc, tiểu cô của ta cũng chẳng ai để ý.
Chỉ có thái tử, ánh mắt sắc bén, nhìn thấu hết thảy.
“Đa tạ điện hạ nhắc nhở.” Ta khẽ đáp.
Thái tử giật cương ngựa, xoay người rời đi.
Tối hôm đó, ta và Tống Diệu Xuyên cùng dùng bữa trong Như Trúc Đường, hắn đột nhiên nhắc đến thái tử.
Hắn nói: “Thái tử hình như quá thư sinh thì phải.”
Ta nghe xong, bất giác bật cười.
“Sao vậy?”
“Chàng rời xa kinh thành sáu năm, đâu biết thủ đoạn của thái tử. Hắn bề ngoài ôn nhuận, nhưng bên trong thâm độc quyết liệt, là kẻ nhất định sẽ báo thù.” Ta đáp.
Ta chỉ kể một chuyện nhỏ: năm xưa thái tử chọn phi, đã chọn trúng đường tỷ của ta, nhưng lại bị Chu gia chen chân vào.
Hoàng đế hạ chỉ, ban hôn thiên kim Chu gia cho thái tử.
Chẳng qua hai năm, nhà họ Chu liền sụp đổ, thái tử phi bệnh mất, thái tử ung dung từng bước từng bước đẩy đổ thế gia này.
“Thật là ác độc.” Tống Diệu Xuyên cười nhạt, biểu cảm thoáng lỏng ra.
Ngày mùng một tháng chín là sinh thần của ta.
Nhà mẹ đẻ đưa đến lễ hậu; Thái hậu cũng có quà; ngay cả thái tử cũng ban cho hai mươi xấp gấm lụa thượng hạng để may y phục.
Cha chồng mẹ chồng đều có quà cho ta.
Ngay cả đại nha hoàn trong viện ta cũng đích thân làm cho ta một đôi giày.
Duy chỉ có Tống Diệu Xuyên là không hề có gì.
Tam đệ nhắc khéo hắn.
Chiều tối, hắn không ăn cơm, một mình rời khỏi Như Trúc Đường.
Khi ta sắp ngủ, hắn mới quay về, trong tay cầm theo một chiếc cung đăng nhỏ nhắn.
Trên cung đăng vẽ tranh mỹ nhân, tinh xảo vô cùng, ánh sáng bên trong không phải nến mà là hàng ngàn con đom đóm phát sáng lấp lánh.
Đầu thu, đom đóm đã khó tìm, vậy mà hắn lại dụng tâm đến thế.
Quản sự ma ma nhìn ta chằm chằm, định nói gì đó nhưng ta vội vàng ngăn bà lại.
Ta vươn tay đón lấy, khẽ nói một câu cảm tạ với hắn.
Tống Diệu Xuyên cười: “Từ nay về sau, năm nào ta cũng sẽ cùng nàng đón sinh thần.”
Ta cũng mỉm cười.
Cung đăng được treo dưới mái hiên, nhưng chỉ chốc lát sau, ta đã thả hết đom đóm về trời, tích đức hành thiện.
Mẹ chồng nghe chuyện trong Như Trúc Đường, liền gọi ta tới hỏi.
“Tranh nhi, con nghĩ thế nào?”
Ta đặt một phong thư trước mặt bà.
Bà mở thư ra xem, tay khẽ run lên.
Bà hỏi: “Còn đường xoay chuyển không?”
Ta nhẹ nhàng lắc đầu.
Mẹ chồng lặng lẽ nhìn ta, đôi mắt dâng lên tầng hơi nước mỏng.
Bà thương ta như chính con gái ruột. Mẫu thân trên đời chẳng ai nỡ để nữ nhi phải khổ, nên bà chẳng nói gì, chỉ lặng lẽ nắm lấy tay ta.
Ta cứ thế chờ đợi, cho đến khi năm cũ qua đi, năm mới gõ cửa.
Nhà họ Tống bị “đuổi” tới hẻm Vạn Cảnh, nhưng năm nay cũng không đến nỗi khổ sở vất vả.
Trái lại, còn bớt được nhiều xã giao rườm rà, nhẹ nhõm thư thái hơn.
Nhưng tết năm nay, ta và Tống Diệu Xuyên đang “chiến tranh lạnh.”