Truyền Tự - Chương 3
13
Ta đang trầm ngâm, chưa biết nên hạ bút viết thư ra sao, thì Đồng Nhi hấp tấp chạy vào báo tin: “Vương gia đến mời gặp mặt.”
Ta lạnh nhạt phất tay:
“Không đi.”
Nói chưa dứt lời, lại đổi ý:
“Đi. Hẹn hắn ở tửu lâu Minh Hoa.”
Phí Nguyên thủ đoạn hèn hạ, ta vốn chẳng muốn gặp.
Thế nhưng nghĩ lại, gặp một lần để dứt khoát cho xong, lỡ như hắn lại bày ra trò gì nữa.
Rượu nhạt, món ăn đơn sơ, đối diện nhau mà ngồi.
Cảnh vật vẫn như xưa, chỉ là lòng người đổi thay.
Người từng là vương gia phong lưu tuấn tú năm nào, nay trong ánh mắt lại có chút đắc ý của kẻ tiểu nhân.
Thấy ta, hắn cứ tưởng dĩ nhiên là ta đến cúi đầu nhận thua.
“Tiểu thư Tạ Tử Tâm.” Hắn cười nhạt, “Bổn vương đã nói, đứa trẻ này theo ta, về sau là thế tử của vương phủ. Ta và Linh Lung sẽ đối đãi nó tử tế.”
Một bộ dạng như thể nắm chắc phần thắng trong tay.
Hắn chắc mẩm sau lưng ta chẳng có ai, ta không đấu nổi với hắn.
Ta bình tĩnh, cương nghị mà nói:
“Con của ta, sẽ không nhận người khác làm mẫu thân. Hơn nữa, ngươi ép người đến bước này, nếu ta cùng đứa trẻ có mệnh hệ gì, ngươi thật sự không hối hận sao?”
Đứa bé trong bụng ta không chỉ là huyết mạch duy nhất còn lại của tướng phủ, mà cũng là huyết thống duy nhất của hắn.
Phí Nguyên tức giận đến vỗ bàn đứng phắt dậy:
“Ngươi điên rồi sao! Lại dám lấy thế tử của bổn vương ra uy hiếp! Nếu thế tử có chuyện, nhà ngươi dù có diệt tộc cũng không đủ bồi thường!”
Trên bàn, món tôm phủ dung bị chấn động rơi xuống đất.
Mảnh sứ vỡ xen lẫn tôm văng tứ tung, dầu mỡ bẩn vấy lên váy ta.
Phí Nguyên như chẳng hay biết, chỉ giận dữ trừng mắt nhìn ta.
Chợt, ta nhớ lại…
Khi xưa huynh trưởng nói ta thích ăn món tôm phủ dung ở phủ.
Thế là toàn bộ tửu lâu, quán trọ dưới danh nghĩa nhà họ Tạ ở kinh thành đều học cách làm món ấy từ đầu bếp trong phủ.
Lúc mới thành thân, Phí Nguyên thường đưa ta đến đây ăn, mỗi lần đều gọi món đó.
Về sau, phụ thân và huynh trưởng xuất chinh.
Hắn dần lạnh nhạt với ta.
Khi ấy, ta còn ngây ngốc nghĩ chắc bản thân làm sai chuyện gì khiến hắn giận.
Càng tỉnh táo, lại càng thấy quá khứ thật trào phúng.
Lúc ta đang thất thần, cúi đầu nhìn bụng, bật ra một tiếng cười lạnh:
“Vương gia quên rồi sao? Tướng phủ ngày nay, chỉ còn lại hai mẹ con ta thôi.”
Phí Nguyên bỗng nghẹn lời.
Ánh mắt dừng lại nơi bụng ta, yết hầu chuyển động mấy lượt.
Dẫu vậy vẫn không chịu buông:
“Thôi, bổn vương lười tranh cãi với ngươi. Dù ngươi có đồng ý hay không, chuyện này cũng không đến lượt ngươi quyết định!”
Nói đoạn, hắn phất tay áo bỏ đi.
Khi ra đến cửa, đụng phải tiểu nhị.
Một chậu cúc non liền rơi xuống, hoa văng đầy đất, lấm cả bùn đất.
Tiểu nhị vội vàng xin lỗi.
Phí Nguyên không chút nương tay, đá hắn một cú rồi sải bước rời khỏi.
Tiểu nhị vừa xoa chân vừa bối rối:
“Cô nương thứ tội, tiểu nhân lập tức đổi chậu hoa khác mang lên.”
Ta nhìn chậu hoa rơi vào bùn đất, cổ họng bỗng nghẹn lại.
“Chậu hoa này…”
Nhớ mỗi lần ta đến đây, trong phòng đều đặt một bó cúc ta yêu thích.
Ta vẫn tưởng là do Phí Nguyên cố ý chuẩn bị.
Tiểu nhị vội nói:
“Là chưởng quầy dặn sớm, nói chủ tử đã căn dặn, mỗi khi cô nương ghé qua, nhất định phải chuẩn bị sẵn loài hoa này. Chỉ là tiểu nhân sơ suất, nay mới nhớ ra.”
Chủ tử dặn sao?
Thì ra, cả những ân cần thuở ban đầu của Phí Nguyên, đều là ta tự lừa mình dối người.
Tất cả những thứ ta tưởng là sủng ái…
Hóa ra, đều do huynh trưởng âm thầm chuẩn bị.
Ta bỗng thấy sống mũi cay cay.
Lúc Đồng Nhi hớt hải quay lại, ta đang ôm mặt khóc nức nở.
Nàng ấy mang theo sổ sách tửu lâu, lại cuống quýt lấy khăn tay ra.
Muốn nói lời an ủi ta, lại nghẹn ngào không thốt nổi.
Chỉ đành nhẹ nhàng vỗ lưng ta.
Khóc đủ rồi, ta hỏi nàng:
“Đồng Nhi, ta thật sự… có thể giữ lại vinh quang của Tướng phủ chăng?”
Nàng rưng rưng đáp lời:
“Có thể… nhất định có thể mà! Ngay cả Tạ tướng quân cũng khen ngợi tiểu thư, chỉ là thế gian nay chưa ai hay biết.”
Ta ôm lấy nàng, lau khô nước mắt. Rồi mới đứng dậy hồi phủ.
Trên đường về, lại ngang qua tiệm bánh. Chủ tiệm là một phụ nhân vui vẻ ra đón, nhét vào tay ta một gói bánh đào:
“Nhớ lần trước cô nương nói thèm bánh đào, đây là ta mới làm, mời cô nương nếm thử.”
Ta thoáng ngạc nhiên:
“Ngươi không phải từng nói không biết làm sao?”
Bà ta cười ngượng ngùng:
“Trước kia thấy món này phức tạp lại tốn công, mà nước đào thì chẳng dễ có, học vài lần là bỏ. Sau lại nghĩ, nếu sau này mẹ mất, món này cũng mất theo, chẳng còn ai nhớ đến bà. Ta cũng mất đi một thứ để tưởng niệm… Thế là ta cắn răng học cho bằng được.”
Nói tới đây, trong mắt đã có phần xót xa.
Ta cũng bị kéo theo nỗi buồn, không khỏi lo lắng thay:
“Lệnh đường vẫn an ổn chứ?”
Bà ta khẽ lắc đầu:
“Cũng chẳng mấy tốt… người già mà, ngày một yếu đi thôi.”
Vừa nói, vừa tranh thủ gói bánh cho mấy vị khách khác.
Đến khi ta dặn Đồng Nhi trả tiền, bà ta lại không chịu nhận.
15
Thời gian thấm thoắt trôi qua, kinh thành dần bước vào mùa đông giá rét.
Quyển “Nam Việt Thực Ký” mà ta dốc lòng biên soạn, nay cũng đã sắp hoàn chỉnh.
Nghe nói mấy hôm trước, Phí Nguyên có thượng tấu, thỉnh chỉ xin phong Khúc Linh Lung làm chính thất vương phi.
Không ngờ lại bị bệ hạ giận dữ quở trách một phen.
Đồng Nhi lúc kể với ta, giọng đầy bất bình phẫn nộ:
“Lúc này mà còn dám thỉnh chỉ phong vương phi, cái tâm tư của họ Khúc kia thật là tính toán sâu xa, chỉ chờ danh chính ngôn thuận để đoạt lấy tiểu công tử nhà ta mà thôi!”
Ta lật xem chiếc yếm đỏ và chiếc mền mà Đồng Nhi mới thêu, càng ngắm càng thấy lòng vui vẻ.
Những ngày bận rộn này, mọi vật nhỏ của hài nhi đều do một tay nàng chuẩn bị.
Thế nhưng lúc này, sắc mặt Đồng Nhi lại mang vẻ lo lắng.
“Tiểu thư! Sao người vẫn điềm nhiên như chẳng có gì? Người của Vương phủ ngày nào cũng bám rình ngoài cửa phủ, chỉ chực chờ người sinh nở đó!”
Càng đến gần ngày sinh, không chỉ Vương phủ mà ngay cả trong cung cũng cách ba ngày lại phái người tới hỏi thăm.
Ban đầu ta còn đích thân tiếp vài lượt, nhưng giờ đã để quản gia đứng ra tiếp khách.
Ta gấp lại áo đệm, dịu giọng trấn an nàng:
“Việc này chẳng phải chúng ta đã sớm lường trước hay sao?”
Hơn nữa, mọi toan tính, cũng đã chuẩn bị thỏa đáng từ lâu.
“Dù nói thế, nô tỳ vẫn thay người bất bình cho được!”
Miệng nàng trách móc giận dữ, nhưng tay vẫn nhẹ nhàng dìu ta dạo bước thư giãn.
Vừa bước qua cửa viện, đã thấy quản gia rảo bước tiến lại, mặt mày hớn hở.
“Tiểu thư đoán xem, ai vừa mới hồi kinh?”
“Là ai?” Ta cũng lấy làm tò mò, không biết nhân vật nào lại khiến quản gia mừng rỡ đến thế?
“Hứa phó tướng Mậu Lâm!”
Nghe đến cái tên ấy, ta thoáng ngẩn người, trong lòng lờ mờ cảm thấy quen thuộc.
“Là vị ca ca từng ở trong phủ khi còn nhỏ?”
“Chính là người ấy! Tạ Tướng quân từng nói rằng cuối năm cần về triều dâng tấu, nên phái Hứa phó tướng hồi kinh. Còn có mang theo bản thảo “Nam Việt Thực Ký”, giục tiểu thư sớm cho khắc in nữa đó!”
Nghe lời ấy, lòng ta thấy an tâm hơn phần nào.
Năm xưa, phụ thân từng đưa nhiều cốt nhục chiến hữu về phủ nuôi nấng một thời gian.
Hứa Mậu Lâm, tất nhiên là người đáng tín cẩn.
Ta cứ ngỡ hắn chỉ về giúp việc. Nào ngờ buổi chiều hôm đó, binh mã của Hứa phó tướng đã vây kín phủ tướng quân.
Trước cửa phủ, hắn cất giọng bi thương:
“Thuở nhỏ nhờ tướng quân cưu mang, ân tình chưa trả, đã âm dương đôi ngả. Nay nghe tin ái nữ của ân nhân sắp sinh, lại có kẻ xấu quấy phá. Bổn phó tướng nguyện ngồi đây trấn giữ, bọn gian tà hãy tự rút lui, bằng không đừng trách đại đao ta không có mắt!”
Hắn thậm chí chẳng bước vào cửa phủ, chỉ dựng đại đao ngồi ngay nơi cổng lớn.
Chuyện này khiến phủ tướng quân một lần nữa trở thành tâm điểm lời bàn tán.
Dân chúng lại nhớ đến công lao to lớn của cố tướng quân.
Nhiều người bắt đầu xì xào:
“Nghe nói nơi ngoại thành có mở học đường, khi Tướng quân còn sống vẫn mời thầy dạy chữ cho cô nhi của binh lính.”
“Không chỉ vậy, nghe đồn còn có người dạy võ nghệ binh pháp cho những đứa trẻ ấy nữa. Hứa phó tướng chính là một trong số đó, được Tướng quân nhặt về từ chiến trường. Còn vài người nữa giờ đang giữ trọng trách trong quân, chưa kịp hồi kinh.”
“Thật sao? Thế thì mấy ngày trước Vương phủ tìm cớ gây chuyện, định chiếm đoạt tiểu thế tử, chẳng phải giờ xem như hỏng hết rồi sao?”
“Chưa chắc, dù sao cũng là huyết mạch Vương phủ, chuyện này… khó nói lắm.”
Lời bàn tán dẫu có nhiều, phần đông vẫn giữ tâm lý xem náo nhiệt.
Kẻ đầu tiên không chịu được chính là Phí Nguyên.
Hắn dẫn theo thân vệ Vương phủ đến phủ tướng quân, đối đầu với Hứa phó tướng.
Ta nhất thời hoảng loạn, bụng đau dữ dội, nước ối vỡ tung.
Đồng Nhi sợ hãi hét lớn cầu cứu.
Trong phủ vốn đã chuẩn bị sẵn bà đỡ cùng đại phu, phút chốc ai nấy đều cuống cuồng.
Ta được đỡ lên giường, theo lời bà đỡ mà rặn sinh, mồ hôi lạnh ướt đẫm toàn thân.
Mỗi lần dùng sức, hạ thể đau đớn như bị xé toạc.
Đồng Nhi vẫn luôn ở bên, nắm chặt tay ta, không ngừng động viên, bảo ta cố gắng.
Mỗi lúc ta ngỡ mình sắp chịu không nổi nữa, lại nghĩ đến phụ thân, nghĩ đến huynh trưởng…
Thế là lại kiên cường vượt qua.
Suốt một đêm dài, cuối cùng đến lúc trời rạng, vang lên tiếng trẻ sơ sinh cất tiếng khóc.
Ta gắng sức nắm chặt tay Đồng Nhi, dõi mắt nhìn đứa nhỏ.
Đồng Nhi vừa bước tới, thì bà đỡ lắc đầu, giọng mang chút tiếc nuối:
“Là một bé gái.”
17
Trong chốn cung môn cùng khắp phố phường, lời đồn đã lan truyền như gió cuốn:
“Tạ tiểu thư sinh ra một bé gái, Vương phủ cùng phủ Tướng quân đều đoạn hậu rồi!”
Phí Nguyên tâm thần đại loạn, lảo đảo rời đi.
Trên đường, hắn không ngừng lẩm bẩm:
“Sao lại là nữ nhi? Sao lại là nữ nhi…”
Hứa phó tướng nhìn theo bóng hắn, khẽ quay đầu, ngắm lại phủ đệ từng là nơi che chở cho mình, ánh mắt lộ vẻ tiếc nuối.
Cuối cùng cũng hạ lệnh rút quân.
Trong cung, hoàng thượng hỏi lại không dưới ba lần:
“Người của chúng ta xác nhận tận mắt, là Tạ Tử Tâm sinh hạ một bé gái?”
Người đưa tin khom lưng gật đầu chắc nịch.
Hoàng thượng lúc này mới buông xuôi thở dài:
“Thôi vậy… sau này đành phải nhận một hoàng tôn từ tông thất để truyền cho hoàng đệ.”
Trong lòng ngài vẫn không khỏi hối hận.
Nếu năm xưa chẳng phải vì muốn lôi kéo phủ Tướng quân, hoàng đệ sớm đã cưới người trong mộng.
Giờ có lẽ đã con đàn cháu đống, đâu đến nỗi chịu tai ương chẳng từ đâu tới.
Chính trong phút giây này, nỗi áy náy dành cho Phí Nguyên lại sâu thêm một tầng.
Còn Khúc Linh Lung, khi hay tin Tạ thị sinh con gái, tâm trạng phức tạp muôn phần.
Buồn thay ông trời bất công, để vương gia đoạn hậu.
Nhưng mừng là từ nay Tạ thị chẳng còn hy vọng gì trở thành vương phi nữa.
Tạ phủ rộng lớn, thường ngày náo nhiệt là thế, nay lặng lẽ hẳn.
Quản gia đứng ngoài cửa, đau lòng nhìn vào trong, nơi một mẹ một con thân thể suy nhược.
Chỉ còn mỗi Đồng Nhi, tận tâm chăm sóc, chẳng dám rời nửa bước. Cho đến khi người nằm trên giường khẽ rên, dần tỉnh lại.
Đồng Nhi là người phát hiện đầu tiên, ôm lấy hài nhi canh bên giường.
Đôi mắt đỏ hoe thoáng ánh mừng rỡ:
“Tiểu thư, người tỉnh rồi!”
Nàng liền bế đứa bé đến gần, hoan hỉ nói:
“Tiểu thư xem, đại phu nói rất khoẻ mạnh!”
Hài nhi nhỏ xíu, da còn nhăn nhúm, thân thể mềm mại khiến lòng ta chợt mềm theo.
Nước mắt chực trào, chẳng cách nào kìm nén được.
Đồng Nhi vội kêu lên, nhanh tay đặt bé nằm bên cạnh ta:
“Tiểu thư đang ở cữ, không thể khóc, nên mừng mới phải.”
Nàng cuống quýt lau nước mắt cho ta.
Ta bật cười:
“Đồng Nhi, thế còn ngươi khóc làm gì?”
Nàng líu ríu đáp:
“Nô tỳ… nô tỳ mừng thay cho tiểu thư!”
Nói rồi, nàng mới thở phào nhẹ nhõm, như vừa trải qua một trận đại nạn.
Ánh mắt nàng nhìn bé con, cũng giống ánh mắt ta – đầy thỏa mãn.
“Người nói xem, nên đặt tên cho bé là gì?”
“Là Tạ Trường Lạc.” Ta đáp không chút do dự.
Tên này ta sớm đã nghĩ đến.
Nam là Thường Lạc, nữ là Trường Lạc.
(Mong con luôn vui vẻ, bình an dài lâu.)
Đồng Nhi mỉm cười:
“Thật tốt quá, đây là thiên kim của Tạ phủ chúng ta.”
Có lẽ bởi lần đầu làm mẹ, nhìn cảnh ấy, khoé mắt ta lại nóng lên.
“Đồng Nhi, đặt cho Trường Lạc một nhũ danh đi.” Ta khẽ nói.
Đồng Nhi sững người, lắc đầu liên tục:
“Không… không hợp lễ nghi, nô tỳ chỉ là hạ nhân…”
“Ta bảo được là được.”
Từ lúc ta hạ sinh, thân thể yếu nhược, hôn mê không tỉnh, nàng chưa từng chợp mắt.
Người người chê ta sinh con gái, chỉ có nàng luôn ôm lấy bé, cho bú, canh giữ từng khắc.
Nhũ danh do nàng đặt, chẳng có gì sai trái cả.
Sau vài lần từ chối, Đồng Nhi mới rụt rè lên tiếng: “Gọi là Tiểu Tùng… được không ạ?”
Ta hỏi: “Tùng nào?”
Nàng dịu dàng nhìn bé, mỉm cười đáp:
“Tùng trong tùng bách ạ. Nô tỳ tuy học thức nông cạn, nhưng thường nghe các thi nhân ca ngợi, tùng bách cứng cỏi bền bỉ, sinh mệnh mãnh liệt.
Nô tỳ hy vọng tiểu tiểu thư cũng như vậy, có thể gặp dữ hoá lành.”
Ta cười theo, chẳng buồn chỉnh sửa.
Gật đầu dứt khoát:
“Tiểu Tùng, rất hay. Vậy cứ gọi là Tiểu Tùng.”
….
Một tháng sau, nữ nhi của ta tròn tháng.
Phủ chẳng mở tiệc lớn, chỉ phát cháo miễn phí tại cửa thành suốt một tháng.
Chỉ có hoàng cung, phủ Hứa phó tướng và mấy vị tướng lĩnh khác sai người mang lễ vật đến.
Dân thường ăn cháo cũng không khỏi cảm thán:
Tựa hồ khắp kinh thành, chẳng ai thật lòng vui mừng vì sự chào đời của bé gái ấy.
Giữa trưa, một nhóm nho sinh đứng chặn ngay cổng phủ.
Người cầm đầu đường hoàng lên tiếng:
“Chúng ta chỉ muốn hỏi một câu:Nay phủ không còn người trụ cột, học đường kia… còn tiếp tục được chăng?”
Kẻ sĩ vốn trọng lòng thanh cao. Nhưng trải qua nghèo khổ, chịu khổ đọc sách, điều họ lo hơn cả là việc học không được duy trì.
Dù quản gia khuyên thế nào, họ cũng không chịu rời đi. Đành phải báo cho ta.
Lúc tin đến, Đồng Nhi vừa mới cắt một lọn tóc tơ của Tiểu Tùng. Các nha hoàn vây quanh, cười nói vui vẻ.
Nghe có chuyện, ai nấy đều hoảng hốt nhìn ta.
Ta trấn an:
“Không sao, các ngươi cứ tiếp tục, ta đi một lát rồi về.”
Ra đến tiền viện, một biển người chen chúc. Ta mới biết học đường phủ ta nuôi nấng biết bao nhiêu học trò, cũng hiểu vì sao ngân quỹ hao tổn.
Tiên sinh dẫn đầu thấy ta, hành lễ một cái rồi hỏi:
“Hôm nay tiểu thư tròn tháng, lẽ ra chúng tôi không nên quấy rầy. Nhưng việc này liên quan đến tiền đồ, mong người cho một lời chắc chắn:
“Học đường… còn giữ được chăng?”
Thực ra, điều hắn muốn hỏi là: Tạ gia… còn trụ vững được nữa không?
“Được!”
Ta siết chặt áo choàng trên người, cất giọng dõng dạc:
“Chỉ cần ta còn đây, Tạ gia sẽ không ngã.
Học đường, võ trường – những gì phụ thân và huynh trưởng từng gây dựng – ta nhất định sẽ giữ vững.”
Lúc ấy, có một nam tử áo đen bước ra, chất vấn:
“Nhưng dù sao người cũng là nữ tử, dưới gối chỉ có một tiểu thư, nay Tạ gia không còn nam đinh, hơn nữa tộc nhân đâu còn ủng hộ? Tạ gia, liệu còn duy trì được bao lâu?”
Cái lạnh từ đất thấm qua đế giày, lan khắp tứ chi.
Mọi ánh mắt đều hướng về ta, đợi ta lên tiếng.
20
Thật ra, ta vốn có thể không màng tới bọn họ.
Nhưng mỗi lần nghĩ đến phụ thân, huynh trưởng của họ thuở trước từng theo phụ thân ta xông pha nơi chiến địa, ta lại chỉ đành tự ép mình giữ vững bình tâm.
Bấy giờ, lại có một thiếu niên đứng ra, cất giọng rõ ràng thưa rằng:
“Xin tiểu thư chớ trách, việc đèn sách vốn khổ nhọc, chúng ta chỉ lo mười năm đèn sách, cuối cùng công lao đổ sông đổ bể.”
Ta không thể nhẫn nhịn thêm!
“Hay cho một câu mười năm đèn sách, công lao đổ sông đổ bể!
“Lẽ nào chữ nghĩa các người khổ học mười năm, lại vì nhà họ Tạ hưng thịnh hay suy vong mà tan biến sao?
“Từ xưa người có tài chưa từng than trách hoàn cảnh, còn các người thì sao? Chưa bước vào trường thi đã vội tìm cho mình cái cớ thất bại?”
Một trận gió lạnh cuốn qua.
Ta bất giác run rẩy, tựa như bị vùi vào hầm băng.
Mọi người bị lời ta nói làm cho chột dạ, cúi đầu không dám nhìn.
Song vẫn có kẻ chẳng chịu phục, lên tiếng biện giải:
“Tiểu thư xin đừng giận, thực là bởi tướng quân từng nói, sau khoa cử, chúng ta sẽ không còn liên quan gì đến nhà họ Tạ. Chúng ta chỉ không rõ, liệu Tạ gia sớm đã định đoạn tuyệt học đường, hay còn mưu tính khác?”
“Ngươi đã không rõ, thì để ta nói rõ cho nghe: về sau học đường Tạ gia sẽ không thu nhận ngươi nữa.”
Phụ thân ta xưa từng dặn, rằng kẻ nào thi đỗ nhập sĩ, không cần Tạ gia chu cấp nữa thì tự nhiên đôi bên không còn ràng buộc, chỉ để tránh tiếng kết bè kết cánh.
Ấy vậy mà tới miệng hắn, lại hóa thành nhà họ Tạ trở mặt vong ân.
Kẻ như vậy, dẫu thi đỗ, cũng chỉ tổ làm hoen ố thanh danh Tạ gia.
Kẻ nọ nghe xong, sắc mặt đại biến:
“Tiểu thư chỉ một câu nói, liền đoạn tuyệt tiền đồ của kẻ sĩ, há chẳng phải quá độc đoán?”
Ta chẳng buồn nhiều lời, lệnh người kéo hắn ra ngoài.
Lại hướng về các tiên sinh mà nói:
“Chỉ cần ta còn, mỗi tháng Tạ gia cấp bao nhiêu cho học đường, thì cứ thế mà lĩnh. Kẻ nào ngại ngần, lo lắng, muốn sớm lui bước, ta cũng chẳng giữ.”
Chúng nhân nghe xong, đồng loạt thi lễ, đồng thanh:
“Đa tạ tiểu thư.”
Trước khi rời đi, quản gia còn chuẩn bị cho mỗi người hai quả trứng gà đỏ nóng hổi.
….
Ta lê thân mình lạnh cóng trở về phòng.
Đồng Nhi sớm đã nhóm lò than, ấm áp lan khắp gian phòng.
Một chén nước gừng đường đỏ nóng hổi trôi vào bụng, ta mới thấy ấm lên được chút ít.
Chỉ thấy nàng thương xót không nguôi:
“Bọn thư sinh kia đúng là không biết điều, sao có thể đồng loạt làm khó một nữ nhân vừa ở cữ như tiểu thư chứ? Nếu họ thật có tài, thì tự lo tiền đọc sách đi!”
Ta nghe mà lòng bớt uất, cười nhẹ tán đồng:
“Phải đó! May nhờ quản gia cơ trí, bằng không ta e đã lạnh đến đông cứng rồi!”
Nếu không phải quản gia sắp xếp sẵn một “con gà” để răn dạy, bọn họ sao dễ gì lui quân?
…
Đến lễ mừng trăm ngày của con.
Ngoài cửa thành vẫn là quán cháo phát chẩn của Tạ gia như thường.
Chẳng còn ai nhớ, ba tháng trước, Tạ phủ có thêm một tiểu thư.
Chạng vạng hôm đó, kẻ biến mất bấy lâu – Phí Nguyên, lại bất ngờ tìm đến.
Tay cầm một hộp gấm gỗ lim, trông hắn hao gầy đi nhiều, chẳng còn dáng vẻ kiêu căng năm xưa.
Đưa hộp qua, hấp giọng hỏi ta:
“Con ta… ta có thể gặp một chút được không?”
Ta khẽ nhói lòng, đáp:
“Là một nữ nhi, họ Tạ.”
Lần này, hắn không tỏ vẻ chán ghét, ánh mắt dịu lại, thành khẩn nhìn ta:
“Ta biết, ta chỉ là… muốn nhìn con bé một lần.”
Dù gì cũng là phụ thân của đứa trẻ, ta thoáng mềm lòng, gọi Đồng Nhi bế con ra.
Tiểu Tùng đang ngủ say, khuôn mặt nhỏ nhắn thanh tĩnh, chẳng hay phụ thân đến.
Phí Nguyên ánh mắt như nhu hòa đi, khẽ mỉm cười.
Hắn đưa tay định vuốt má con bé.
Đồng nhi vốn đã đề phòng, hoảng hốt ôm chặt đứa nhỏ, lui về sau một bước, như thể gặp đại địch:
“Không phải nói chỉ nhìn thôi sao?”
Phí Nguyên vội rụt tay về, ngẩng đầu nhìn ta, ngập ngừng hỏi:
“Xin lỗi… ta có thể bế con bé một lát được không?”
“Con còn nhỏ, chưa quen người lạ.”
Huống hồ gì, đường đường là một vương gia, sao lại tự mình bế con?
Phí Nguyên thoáng thất vọng, ngơ ngẩn hỏi:
“Nó tên Tiểu Tùng? Sao lại đặt tên như con trai vậy?”
Lúc này, Đồng nhi cũng không nhịn được, ghé tai nói nhỏ, giọng mỉa mai:
“Vương gia chớ có mơ mộng hão huyền, đây là tiểu thư của nhà họ Tạ, danh xưng Tạ Trường Lạc. Không phải thiếu gia, cũng chẳng phải thế tử. Huống hồ, phủ vương gia chẳng phải đã có thế tử rồi sao?”
Phí Nguyên bị nàng đâm trúng chỗ đau, mặt tái đi, vội nhìn về phía đứa nhỏ, tựa như sợ con nghe thấy.
Nhưng Tiểu Tùng vẫn say giấc nồng.
…
Mấy hôm trước, hoàng thượng đã chọn cho Phí Nguyên một đứa con trai từ tông thất, mới chưa đầy nửa tuổi, do trắc phi nuôi dưỡng.
Trắc phi và hắn đều chưa từng nuôi con, dẫu có ma ma chăm sóc, mỗi ngày đứa trẻ vẫn khóc mãi không thôi, khiến cả hai mệt mỏi không yên.
Thế nhưng sáng nay, chẳng rõ tâm huyết dâng trào hay sao, hắn bế thử đứa nhỏ vừa bú xong, đôi mắt mở to, lòng bỗng mềm nhũn.
Bỗng dưng hắn nhớ ra, bản thân chưa từng ôm con gái ruột một lần.
Liệu nó có mềm mại như thế này không?
Có lẽ, tình phụ tử chợt thức tỉnh.
Vậy là hắn đích thân chọn một món quà, tới thẳng Tạ phủ.
Tới nơi mới hay, hôm nay là lễ đầy trăm ngày của con gái hắn.
Nhưng trong phủ vắng lặng như tờ.
Giờ phút này, hắn gom đủ dũng khí, lại ngẩng nhìn người vợ đã hòa ly
“Vì con, nếu nàng muốn trở về làm vương phi, ta có thể…”
“Ta không muốn!”
Không kịp kiềm chế thanh âm, đánh thức Tiểu Tùng đang say ngủ.
Nó oa oa một tiếng khóc lớn.
Ta vội vàng ôm lấy con dỗ dành, lạnh giọng đuổi khách:
“Xin mời về cho!”
Phí Nguyên tựa như bị tiếng khóc ấy làm chấn động, ngẩn người vài giây, rồi quay đầu bỏ chạy.
Chờ bóng dáng hắn khuất hẳn, Đồng nhi mới vỗ ngực thở phào:
“Dọa chế.t nô tỳ! Tưởng hắn đến cướp tiểu tiểu thư của chúng ta!”
Trái tim ta vẫn treo lơ lửng, giờ mới yên ổn trở lại.
23
Sau lễ đầy tháng trăm ngày, quản gia liền thu xếp cho ta đến Tịnh viện nơi ngoại ô Kinh thành.
Một là vì nơi đó vắng vẻ, yên tĩnh, thích hợp để dưỡng thần tịnh tâm.
Hai là quản gia nói, từ khi hay tin ta sinh hài tử, ai nấy trong phủ đều vui mừng khôn xiết.
Chỉ là thường ngày không có dịp vào thành, nên ai cũng mong mỏi trông chờ.
“Đã là chuyện hỷ, tất nên chuẩn bị nhiều bánh ngọt cùng hoa quả khô, để bọn trẻ con cũng được chung vui,” ta nói.
Đồng Nhi nghe thế, liền vui vẻ lo liệu mọi thứ đâu vào đó.
Đến khi xe ngựa đến Tịnh viện, đã thấy trước cổng có không ít người chờ sẵn.
Ngay cửa đại viện, chen chúc đứng đầy phụ nhân và nữ hài.
Nửa năm không gặp, ai nấy vẫn nhiệt tình như thuở nào.
Thấy xe ngựa vừa dừng, mọi người liền vây lại, nét mặt hân hoan, lời nói đều hạ giọng sợ làm kinh động đến hài tử.
Thấy Tiểu Tùng trong vòng tay ta, vị phụ nhân chủ sự vội vàng đưa ta một phong bao đỏ.
Ta còn chưa kịp từ chối, nàng đã mỉm cười giải thích:
“Tiểu thư không thể từ chối, đây là chút phúc khí thêm cho tiểu thư nhỏ.”
Nàng nói vậy, Đồng Nhi liền nhanh tay nhận lấy, sau đó chia bánh ngọt cùng hạt khô cho bọn trẻ.
Trẻ con ríu rít ăn uống, miệng không ngớt lời chúc phúc.
Phụ nhân thì mang ra những con búp bê và đồ chơi thêu tay.
Cảnh tượng thật náo nhiệt mà ấm áp.
Chủ sự đưa ta vào thiên sảnh, vừa đi vừa kể lại tình hình nơi này.
Tịnh viện này quy tụ phần lớn là goá phụ hay cô nhi, vốn không còn khả năng mưu sinh.
Phụ nhân ở đây học nghề may vá, làm ra sản phẩm thủ công.
Chủ sự sẽ đem những món đó đến tiệm nhà họ Tạ trong thành để bán lấy tiền nuôi thân.
Nếu thu nhập không đủ, phủ ta sẽ trợ cấp.
Nếu dư ra, thì để cho họ tích góp riêng.
Nếu ai muốn đến tiệm làm công, chủ sự cũng sẽ an bài chu đáo.
Còn nữ hài thì học thêu thùa, đọc chữ, xem sổ sách, để sau này gả đi cũng dễ an thân lập mệnh.
Thế gian này đối với nữ tử vốn có quá nhiều đòi hỏi, mà những gì có thể trao cho họ lại quá ít ỏi.
Phụ thân ta từng nói:
“Người có phương hướng, việc mới có hy vọng.”
Bọn họ được sống tại nơi này, chính là có thêm một tia hy vọng để tiếp tục sinh tồn.
…
Đồng Nhi nhìn Tiểu Tùng trong tã lót, khẽ bảo:
“Tiểu thư nhỏ đến đây rồi thì ngủ chẳng được bao nhiêu.”
Đôi mắt to tròn không ngừng đảo quanh, lúc thì nhìn cái này, khi lại nhìn cái khác.
Thấy ai, nó đều vui vẻ vẫy tay gọi, khiến ai nấy cũng phì cười.
Đồng Nhi nhìn mà lòng cũng vui lây.
Tối đến, ăn mấy món quê nhà thanh đạm, nghe mọi người chuyện trò rôm rả, lòng ta như được trở về những ngày xưa cũ.
Thuở ấy phụ thân và huynh trưởng ra chiến trường, ta thường buồn chán.
Quản gia sẽ đưa ta đến Tịnh viện ở vài ngày.
Ông ấy nói:
“Mỗi người trong Tịnh viện đều là người nhà của chúng ta.”
Nói xong chợt thấy thất lễ, bèn cười gượng:
“Xin tiểu thư chớ trách, bọn hạ nhân như chúng ta lâu ngày đã xem mình là người nhà họ Tạ rồi.”
Lúc ấy ta chỉ lo chơi, nào để tâm chi lời ông nói.
…
Ở lại hai ngày thì phủ có thư khẩn, báo tin chiến thắng từ phương Nam, đêm ấy sẽ có thánh chỉ truyền đến phủ.
Ta vội vàng hồi phủ, tắm gội thay y phục.
Người trong cung vừa đến.
Công công mặt mày rạng rỡ, dâng thánh chỉ xong còn vui vẻ chúc mừng:
“Chúc mừng huyện chủ Vũ Đức, quả thật là hổ phụ sinh hổ nữ!”
Ta sớm biết được tin từ quản gia.
Tiết tướng quân đã tiến cử quyển “Nam Việt Thực Ký” của ta lên hoàng thượng và được khen ngợi hết mực.
Hoàng thượng cho rằng chiến thắng lần này của tướng sĩ cũng nhờ phần nào từ quyển sách ấy.
Khi luận công ban thưởng, nhớ đến công lao của phụ thân và huynh trưởng ta, bèn phá lệ phong ta làm huyện chủ.
Nghe nói ban đầu còn định phong Tiểu Tùng làm quận chúa.
Nhưng các lão tướng trong triều dâng lời:
“Công lao thuộc về cha con nhà họ Tạ, sao lại ban thưởng cho một đứa trẻ sơ sinh?”
Hoàng thượng nghe thế mới đổi lại, phong ta làm huyện chủ.
Ta biết, bọn họ là vì ta mà lên tiếng.
Liền khiêm tốn đáp với công công:
“Công lao đều là của phụ thân, tiểu nữ chỉ chắp nối lại mà thôi.”
Rồi đưa một túi bạc lên cảm tạ.
Công công mỉm cười nhận lấy, để lại phần thưởng rồi lui ra.
Có được danh hiệu huyện chủ, thiệp mời từ các yến tiệc lớn nhỏ ở kinh thành lại liên tục gửi tới.
Ngay cả việc buôn bán ở các cửa tiệm cũng khởi sắc.
Tất nhiên, phần công lao cũng thuộc về các vị chưởng quỹ trẻ tuổi mới học xong trở về từ ngoại tổ gia.
Những cửa hàng trước kia làm ăn ế ẩm, giờ cũng được vực dậy.
Không lâu sau, tiệm thêu đầu tiên mang danh Tịnh viện cũng khai trương.
Tạ tướng quân, lúc ấy đã thoái ẩn, cùng phu nhân đích thân tới chúc mừng.
Giờ đây, biên cương Nam Việt do Hứa tướng quân trấn giữ.
Hôm ấy, Tiết phu nhân nắm tay ta, nhất định muốn giới thiệu cho ta một lang quân.
Bị Tiếttướng quân ngăn lại:
“Ta thấy cả kinh thành này, chẳng ai xứng với nha đầu nhà họ Tạ. Tạ tướng quân quả thật sinh được một ái nữ tốt!”
Nói đoạn còn nháy mắt với ta đầy ẩn ý.
Ta biết Tiết phu nhân có lòng tốt, nên không giận.
Dạo gần đây, người đến mai mối cũng chẳng ít.
Khen ta thì có, mà gièm pha sau lưng cũng không thiếu.
Nhưng ta chẳng màng để tâm.
Chỉ một lòng một dạ muốn chăm lo gia sự, nuôi nấng Tiểu Tùng khôn lớn.
….
Vừa từ chối một bà mối nơi cổng phủ xong, đã thấy một thân ảnh nhỏ bé chạy xồng xộc ra ngoài.
Vừa chạy vừa gọi lớn:
“Mẫu thân ——!”
Đồng Nhi hoảng hốt đuổi theo, miệng liên tục nhắc:
“Tiểu thư nhỏ chậm lại chút, cẩn thận kẻo ngã!”
Vậy mà đôi chân ngắn của Tiểu Tùng lại chạy nhanh đến khó tin.
Đồng Nhi đuổi mãi vẫn không kịp.
Cuối cùng nàng như viên pháo nhỏ lao thẳng vào lòng ta, nếu không có Ảnh Vệ đỡ lấy, chắc hai mẹ con đã ngã sõng soài nơi cửa phủ rồi.
Tiểu Tùng thấy Ảnh Vệ, liền reo lên:
“Người có phải muốn chơi trốn tìm với Tiểu Tùng không?”
Ảnh Vệ lắc đầu cười khổ:
“Là do Tiểu Tùng chạy nhanh quá, nếu ta không ra, mẫu thân của con sẽ bị thương mất.”
Tiểu Tùng nghe vậy liền giật mình:
“A? Mẫu thân, Tiểu Tùng không cố ý đâu, xin lỗi mà…”
Ta xoa đầu nàng, mỉm cười bảo không sao:
“Nhưng sau này Tiểu Tùng không được chạy nhanh thế nữa, nhỡ ngã thì mẫu thân sẽ rất đau lòng đấy.”
Tiểu Tùng nghiêm túc gật đầu, rồi lại lao vào lòng Đồng Nhi.
=====