Xuân Phong - Chương 2
6
Ánh trăng nghe được tâm nguyện của ta, vậy là Xuân Phong và Tôn Hồ Ly đã thành thân.
Lần này, ta nhất quyết bắt bọn họ đi quan phủ đăng ký, nhưng Tôn Hồ Ly lại vẫn không nhớ nổi tên mình.
Ta nhìn dòng chữ trên án thư, liền đề nghị: “Nương gọi là Xuân Phong, ta gọi là Trân Trân, chi bằng người lấy tên là Tôn Trọng.”
“Trân trọng đối đãi với Xuân Phong, về sau chúng ta đều phải hiếu thuận với nương!”
Xuân Phong mặt đỏ bừng, mỉm cười trách yêu ta: “Vẫn là nữ nhi tốt nhất!”
Vì không có hộ tịch, ta và Tôn Trọng đều phải đến huyện nha một chuyến.
Xuân Phong đến thành Cao Bưu đã hơn ba năm, lại nộp thuế đầy đủ hai năm nay, nên có thể tự lập hộ tịch, làm chủ hộ.
Ta là nữ nhi nhặt về, còn Tôn Trọng là lang quân nhập tế.
Thế là cả hai đều nhập hộ Xuân Phong, từ nay ta đã có một gia đình hoàn chỉnh.
Dù rằng mẹ kế lại tìm cho ta một cha kế, nhưng ta vô cùng mãn nguyện.
Ta ồn ào đòi đi Trấn Quốc Tự tạ thần, Xuân Phong cũng đồng ý, chỉ có vị cha kế mới nhập môn là lộ vẻ khó xử.
Chẳng lẽ vừa vào cửa, đã giở trò quái quỷ? Trong lòng ta lập tức vang lên hồi chuông cảnh giác.
Nhưng khi bắt gặp ánh mắt vừa nghi hoặc vừa chờ mong của ta và Xuân Phong, hắn cũng đành miễn cưỡng gật đầu, chỉ là nụ cười có chút gượng gạo:
“Ta không tin thần linh.”
“Vậy là người không biết thần linh Trấn Quốc Tự linh nghiệm thế nào rồi!” Ta hăng hái phản bác.
Chỉ là, Tôn Trọng thực sự không bái thần, nên ta vừa dập đầu vừa giúp hắn cầu tội:
“Chư thiên thần Phật xin lượng thứ, cha kế của ta bị ngã đập đầu rồi.”
Xuân Phong cũng không ép buộc, chỉ là mỗi lần quỳ lạy đều thay hắn dập đầu hai lượt.
Hôn lễ của Xuân Phong và Tôn Trọng không tổ chức rình rang, chỉ mời vài thân hữu và láng giềng thân thiết.
Thành thân xong, tự nhiên bọn họ dọn về ở chung một phòng.
Sợ ta cô đơn, Tôn Trọng còn xâu cá khô bằng nhánh liễu, đem đi chuộc về cho ta một con mèo trắng.
Gần mười năm nay, đây là lần đầu tiên ta phải tách khỏi Xuân Phong, suốt đêm trằn trọc không ngủ được.
Nhưng từ đây, tan học ta không cần vội vã về nhà, mỗi ngày đều có thể chơi đùa thỏa thích ngoài đường.
Không cần theo dõi, không cần lo lắng, dù có người gây sự, Xuân Phong cũng không còn phải chịu thiệt thòi.
Một ngày nọ, lúc ta về nhà, liền trông thấy một mụ đàn bà đứng trước cửa, chửi Xuân Phong là hư hỏng.
Tôn Trọng lập tức vác rìu lao ra, quát lớn: “Ta sẽ chẻ ngươi làm củi, để phu quân ngươi cưới một người béo tốt hơn, khỏi phải suốt ngày tơ tưởng đến thê tử nhà khác.”
Ta nhìn Xuân Phong trốn sau lưng hắn, lén cười hạnh phúc.
Người trong thành đều nói, không ngờ quả phụ này mệnh tốt, rước được một chàng rể giỏi giang, lại còn biết che chở.
Từ đó, cửa nhà Xuân Phong bớt thị phi đi nhiều.
Chỉ là có một ngày, bà già kia đi ngang tiệm rèn của chúng ta, phun một bãi nước bọt xuống đất.
Ta hỏi Xuân Phong: “Bà ta không phải đã lên kinh thành hưởng vinh hoa phú quý rồi sao?”
“Hình như bị con dâu đuổi về rồi.” Xuân Phong vung một búa xuống, tia lửa bay lên như pháo hoa rực rỡ trong ánh hoàng hôn.
Chuyện kẻ thù sa cơ, ta luôn tò mò vô cùng, liền quấn lấy Xuân Phong, bắt bà giúp ta điều tra mọi chuyện.
Nhưng Xuân Phong chịu không nổi sự lắm lời của ta, nên Tôn Trọng đành tự mình ra tay, bày quầy bán củi mấy ngày ở ngõ Tỳ Bà để dò hỏi tin tức.
Thì ra, Ngự Sử trung thừa đắc tội với thái tử, mà chỗ dựa lớn nhất của Giang Duệ trong triều cũng theo đó mà đổ.
Bà già kia ở kinh thành không chịu an phận, suốt ngày gây gổ với hàng xóm, khiến Giang gia mất mặt không ít.
Mà Giang Duệ xưa nay quen lấy người khác làm đao, liền xúi giục thê tử đấu với mẹ ruột mình.
Rốt cuộc, đại tiểu thư của thế gia danh môn vẫn cao tay hơn, một chiêu liền đuổi bà già kia trở về.
Còn nói gì mà “Mùa xuân ở kinh thành gió bụi lớn, chi bằng hồi hương an hưởng tuổi già.”
Ta đột nhiên hỏi: “Gió bụi kinh thành lớn đến đâu?”
Không cần suy nghĩ, Tôn Trọng đáp ngay:
“Lớn lắm, mỗi năm mùa đông, từ thảo nguyên, sa mạc thổi đến, thường che khuất cả bầu trời, đi ngoài đường một vòng, quần áo cũng có thể giũ ra hai cân cát.”
Ta híp mắt nhìn hắn, chậm rãi lên tiếng: “Làm sao người biết?”
Rồi lập tức hỏi dồn: “Cha kế, người là người kinh thành sao?”
7
Có lẽ là do lời hứa năm ấy của ta quá mức tùy tiện, bản thân cũng chẳng để tâm mấy.
Năm thứ hai, nguyện ước đã hiến dâng cho trăng sáng, đến sinh thần, ta lại tham lam mà cầu một điều khác.
Vậy nên ước mong Xuân Phong gặp được lương duyên, rốt cuộc chỉ thành một nửa.
Bà quả thực đã gặp được người tốt, chỉ là kẻ ấy ở bến tàu bốc vác hàng hóa, vô tình trông thấy vị Ngự sử trung thừa bị triệu hồi về kinh, phong quang vô hạn.
Từ đó, hắn liền mất hút mấy ngày liền.
Mãi đến sau sinh thần năm sau, vào một đêm nọ, ta nghe thấy hắn nói:
“Nương tử, ta muốn lên kinh một chuyến, mong nàng đồng ý.”
Đôi đũa trên tay Xuân Phong hơi khựng lại, sắc mặt khó đoán: “Đi bao lâu?”
Tôn Trọng chỉ vào tờ giấy ta viết dở trên bàn: “Trước khi Trân Trân hoàn thành bức thư pháp này, ta nhất định trở về.”
“Được, mang thêm chút bạc.” Xuân Phong gắp miếng cá cuối cùng vào bát hắn.
Ta bật dậy phản đối: “Nương! Đừng để hắn đi! Vạn nhất hắn cũng một đi không trở lại thì sao?”
Xuân Phong kéo ta ngồi xuống, nhẹ nhàng vỗ về, bảo ta chớ kích động.
Nhưng ta sao có thể không kích động, mất bao công sức mới chọn được một người cha hợp ý, nay lại sắp bị bỏ rơi, trong lòng ta ấm ức vô cùng, đến cơm cũng chẳng buồn ăn, chỉ lăn ra đất đạp loạn:
“Người lên kinh làm gì? Không phải nói mùa đông gió cát dữ dội ư? Chẳng lẽ đi để ăn cát chắc?”
Tôn Trọng để mặc ta đá chân loạn xạ vào chân y, chỉ lặng lẽ gỡ xương cá, cẩn thận chia làm hai phần, đặt vào bát của Xuân Phong và ta:
“Phụ thân cam đoan với con, nhất định sẽ trở về! Nếu không, vàng bạc đầy kho, để mẫu thân con một mình tích góp, e rằng quá vất vả rồi.”
Ta nhớ đến những năm qua, hắn chặt củi, khuân vác hàng hóa, chưa từng có một ngày nghỉ ngơi, về nhà vẫn tranh làm việc nặng.
Nhờ có hắn, mà mùa đông, tay ta và Xuân Phong không còn nứt nẻ vì lạnh.
Nhờ có hắn, mà võ công của ta ngày một tiến bộ, nhất là về cầm nã thuật và cận chiến, đều do hắn từng chiêu từng thức chỉ dạy.
Học chính còn nói, cuối năm sẽ đến gặp cha ta, nếu thực sự có bản lĩnh, năm sau sẽ mời hắn làm giảng sư.
Ta một lòng coi hắn là phụ thân ruột thịt, vậy mà cha kế vừa học được chút dáng vẻ của phụ thân, liền muốn bỏ mặc chúng ta!
Ta khóc đến nấc lên từng hồi, Xuân Phong kéo ta dậy, vừa vỗ lưng vừa dỗ dành:
“Trân Trân đừng khóc, lần này nương nhất định không để hắn đi, nếu hắn dám không trở về, nương sẽ dẫn con lên kinh tìm hắn!”
“Thật chứ?” Ta nghẹn ngào hỏi lại.
Xuân Phong dịu dàng lau nước mắt cho ta: “Thật! Nếu nương nuốt lời, cả đời sau cũng không tìm nam nhân nữa!”
Nhìn bà quyết tâm như vậy, ta mới dần dần nín khóc.
Hôm sau, Tôn Trọng lên đường, Xuân Phong cân hơn nửa số bạc trong tủ, đưa cho hắn mang theo, dặn dò cất giấu ở nhiều nơi.
Tôn Trọng bảo bà giữ lại mà dùng, nhưng Xuân Phong kiên quyết không chịu, chỉ nói:
“Ta biết chàng ngày sau ắt hẳn vinh hoa phú quý, nhưng trước mắt chưa có, mà nhà nghèo thì đi đường cần phải rộng rãi.”
Ta trốn sau cửa, ló đầu ra, lớn giọng gọi: “Cha, người nhất định phải trở về!”
Hắn ngoảnh đầu cười: “Yên tâm! Cha còn chờ con thi đậu Võ Trạng Nguyên đây!”
Gió đông vừa lạnh vừa ẩm, trong sân vẫn còn treo đầy cá muối, thịt ướp của Tôn Trọng, củi chất cao ngay ngắn, quần áo phơi bên lò rèn của nương đã hong khô qua đêm.
Xuân Phong đôi lần thất thần, lúc rèn sắt cũng có chút lơ đãng.
Tan học, ta về nhà đúng giờ, ôm mèo trắng canh chừng bà.
Tối đến, bà đẩy cửa, chui vào chăn ta, ta hỏi:
“Nương, cha nói lên kinh làm gì?”
“Hắn bảo, hắn và Thái tử là bằng hữu, Thái tử gặp nạn, hắn không thể khoanh tay đứng nhìn.”
Trong bóng tối, Xuân Phong nói rất nhẹ nhàng.
Ta bật dậy như cái lò xo, bị lạnh đến run cầm cập, bà vội kéo ta trở lại, đắp chăn kín mít.
Mặc dù răng va vào nhau lập cập, nhưng ta vẫn không nhịn được mà châm chọc:
“Nương tin hắn là bằng hữu thuở nhỏ của Thái tử? Thế thà tin con là nữ nhi của quận chúa còn đáng tin hơn!”
Mèo trắng chui vào lòng ta, “meo” một tiếng tán thành.
Bên cạnh, hơi thở bà đều đặn, ta tưởng bà đã ngủ, cũng nhắm mắt lại, nhưng bất chợt nghe thấy mấy chữ nhẹ như gió thoảng:
“Ta tin.”
8
Trên bàn của ta đặt một tờ giấy, chia làm chín ô vuông, phía trên viết bốn chữ nhỏ: “Quản Thành Xuân Mãn”.
Từ góc phải trên cùng đến góc trái dưới cùng, mỗi ô đều có ghi “nhất cửu” đến “cửu cửu”.
Lần đầu tiên Xuân Phong dạy ta viết chữ, chính là vào đêm sinh thần đầu tiên ta trải qua cùng bà ấy.
Mùa đông năm ấy lạnh thấu xương, tổ mẫu nói trẻ nhỏ hỏa khí thịnh, liền lấy đi chăn bông của ta, khiến ta chỉ có thể chui vào trong lòng Xuân Phong để sưởi ấm.
Bà ôm ta ngồi trước bàn, dùng giấy bút cha để lại, vẽ một bức họa rồi chỉ vào đó bảo: “Cái này gọi là Cửu Tiêu Hàn Đồ.”
Đình tiền thùy liễu, trân trọng đãi Xuân Phong.
Thường vào ngày Đông Chí bắt đầu, mỗi ngày người ta sẽ viết một nét bút, đợi đến khi hoàn thành chín chữ này, xuân sẽ về.
Khi ấy ta vẫn còn ngây thơ, ngước lên hỏi bà: “Thật linh nghiệm như vậy sao?”
Bà nắm tay ta, chấm mực đề bút, viết xuống nét đầu tiên:
“Đương nhiên rồi, qua đêm dài nhất này, về sau chỉ có ánh sáng.”
Học đường cho chúng ta nghỉ đông, mỗi ngày động lực để ta rời khỏi ổ chăn chính là đến bàn viết Cửu Tiêu Hàn Đồ.
Hôm nay, ta đã viết xong nét bút cuối cùng của chữ “Liễu”, trong lòng bất giác nghiến răng nghiến lợi.
Cái chữ “Liễu” này, chính là “Liễu” đã đoạt mất cha ruột của ta, cũng chính là “Liễu” đã khiến nghĩa phụ rời nhà.
Đang lúc căm phẫn nhìn chăm chăm tờ giấy, một bàn tay lạnh như băng liền nhét vào cổ ta.
Lạnh đến mức ta giật nảy mình, quả nhiên là Xuân Phong, bà ôm Tiểu Bạch Lê sưởi ấm tay:
“Đi nào, hôm nay ra ngoài tìm chút vui vẻ.”
Bà thu xếp cá thịt vào giỏ, còn vớt từ chum nước ra một miếng đậu hũ.
Thấy vẫn còn chỗ trống, liền gỡ con ngỗng già treo trên cọc xuống, chặt lấy nửa con rồi vứt cả giỏ đồ nặng trịch vào tay ta.
Sau đó lại vác theo hai túi than bên bếp, ngoắc ta đi theo.
Càng đi càng thấy không đúng, rốt cuộc lại đến Hẻm Tỳ Bà.
Có người chào hỏi bà: “Xuân nương, lại đến chơi đấy à?”
Bà cười đáp: “Đến thăm tổ mẫu của nó ấy!”
“Chao ôi! Trân Trân lớn rồi đây!” Người bên cạnh khen “Cô nương này nhìn khỏe khoắn ghê, đã có mối hôn ước chưa?”
Ta chẳng buồn nghe tiếp, trực tiếp ném giỏ đồ xuống đất, trừng mắt nhìn Xuân Phong: “Con không đi!”
Bà một tay đỡ đòn gánh, một tay xách cổ áo ta: “Nhanh lên, đừng để ta phải động thủ!”
Dứt lời, giọng lại mềm xuống, dỗ dành:
“Chẳng phải thật sự đến thăm bà ta, chỉ là nghe nói bà ta sống không tốt, chúng ta đến xem trò vui!”
Cửa nhà họ Giang vừa đẩy ra, lớp sơn liền bong tróc.
Bà già này quả nhiên keo kiệt, con trai bảo tu sửa, bà ta chỉ sửa mỗi cánh cửa.
Xuân Phong đặt hai túi than dưới mái hiên, lại mang thức ăn vào bếp, rồi kéo ta vào phòng bà lão.
Bên trong nồng nặc mùi thuốc, bên cạnh có Lý đại nương đang thiếp đi, thấy chúng ta đến, bà ấy như bắt được cứu tinh:
“Đây là Trân Trân phải không? May mà hai mẹ con các ngươi đến rồi! Xuân nương à, không phải ta không muốn nhận tiền của ngươi, mà là bà già này quá keo kiệt, ta thật sự chịu hết nổi rồi!”
Xuân Phong tiễn Lý đại nương ra ngoài, còn lén nhét vào tay bà một miếng bánh vân phiến, dưới cùng đè một phong bao lì xì:
“Được rồi, đại nương, vất vả cho người rồi, đây là tiền lì xì cho Đại Bảo.”
Lý đại nương bóp bóp phong bao, mặt mày hớn hở, lại dặn dò thêm một câu:
“Theo ta nói, các ngươi cũng đừng quản nữa, cứ viết thư báo cho đứa con trai kia của bà ta đi.”
Thì ra bà già này đã bệnh từ mùa thu, người trong tộc đều biết bà ta không được con trai con dâu coi trọng, nhưng cũng chẳng ai muốn nhúng tay.
Chỉ có Xuân Phong nghe tin, liền mời lang trung, thường xuyên mang thức ăn đến.
Bà còn thuê Lý đại nương mỗi ngày hai bữa cơm chăm sóc.
Người trên giường đã hồ đồ, Xuân Phong bón thuốc, lau rửa, thay cho bà ta bộ y phục sạch sẽ.
Lúc chúng ta sắp rời đi, bà ta bỗng túm lấy tay ta, lục lọi dưới gối móc ra một chiếc túi gấm cũ nát, nhét vào tay ta:
“Ta sinh ra một đứa con trai, con trai ta làm quan lớn đấy, ngươi biết không? Ngươi biết không? Ha ha ha!”
Túi gấm này cũ đến mức dính bết lại, phía dưới còn có một cái nữa.
Xuân Phong gỡ ngón tay bà ta ra, ấn bà nằm lại giường, đợi đến khi bà ta lại bắt đầu lẩm bẩm, mới kéo ta rời đi.
“Người không hận bà ta sao?” Ta phát hiện trong tay vẫn còn hai cái túi gấm rách, giơ lên quăng mạnh đi.
Xuân Phong sải bước chạy tới nhặt lên:
“Ta hận bà ta làm gì? Bà ta sắp ch.ết rồi, ta tự chuốc bực vào người làm gì chứ? Hơn nữa, mẫu thân của con chỉ là con gái lò mổ, làm gì có hai trăm lượng tiền hồi môn?”
“Ài, cũng phải!” Ta bước đến nắm lấy tay bà:
“Giá mà con thật sự do người sinh ra, chắc chắn cũng rộng lượng như người vậy.”
Bà mở một cái túi gấm ra xem: “Con chính là con ta mà, ta còn giữ cả tóc thai và bát tự của con đây này.”
Ta thì không hào phóng như Xuân Phong, xót xa số cá muối mà cha kế phơi cho bà: “Sao lại mang nhiều đồ ăn cho bà ta như vậy?”
“Bà ta là tổ mẫu của con, ta gả vào chưa đến hai năm, cũng chính bà ta nuôi con đấy, dù rằng là nuôi để bán lấy tiền.” Xuân Phong kéo ta đi về nhà, bỗng lộ ra nét ranh mãnh:
“Bà ta đuổi con ra ngoài, hàng xóm đều thấy cả. Bà ta bệnh, con đến thăm, hàng xóm cũng thấy. Con học hành xuất sắc, lại thêm tiếng hiếu thuận như vậy, muốn không được tiến cử đi thi võ cử cũng khó.”
“Không phải người nói danh tiếng không quan trọng sao?” Ta bớt giận, thì ra vẫn là đang mở đường cho ta.
“Ý ta là, đừng để danh tiếng trói buộc con.”
Bà ghé sát ta, hạ giọng nói:
“Thanh danh, dục vọng, quyền lực, tiền tài, không cần xa lánh, con phải đối diện, ứng biến, khống chế, hưởng thụ.”
Bà siết chặt tay ta, cúi đầu dặn dò:
“Con phải làm chủ chính mình.”
Nhìn dáng vẻ nghiêm túc tận tâm của bà, ta bỗng nảy ra ác ý, hất tay chạy lên trước:
“Người chắc chắn sợ cha kế không về, nên muốn gửi con lên kinh thi võ cử, tiện thể bắt ông ấy về chứ gì?”
9
Vừa mới qua năm, Giang gia ở ngõ Tỳ Bà đã treo cờ trắng.
Tổ mẫu ta mất rồi, đứa con trai mà bà nâng niu suốt đời lại chẳng thấy mặt, ngay cả một cái dập đầu cũng không có.
Nhưng ta bị Xuân Phong kéo đi, khóc suốt hai ngày ròng rã.
Thật là người nghe thì đau lòng, kẻ thấy thì rơi lệ.
Ngay cả tộc trưởng Giang gia cũng để cho ta, một đứa cháu gái chưa từng được ghi vào gia phả, quỳ trước linh đường nghênh tiễn khách nhân.
Nhờ đó, ta có được danh tiếng hiếu thuận, còn Xuân Phong thì nhân dịp đầu năm, cầm theo bạc cùng liềm, đi khắp nơi bái lạy.
Ta cũng thuận lợi giành được tư cách tham gia võ cử năm sau.
Trên bàn, bức “Cửu Tiêu Hàn Đồ” đã gần đi đến hồi kết.
Nhưng sáng nay, ta thậm chí chẳng muốn rời giường, mặc cho mèo trắng dạo bước trên đầu ta.
Tôn Hồ Ly còn chưa về, nhưng ngoài cửa đã vang lên tiếng cãi vã. Ta vội khoác áo bước ra ngoài.
Mới khai trương, kẻ đến gây rối lại là tên râu quai nón hôm nọ. Hắn đứng trước cửa nhà ta, mắng chửi như đàn bà đanh đá:
“Đừng tưởng ta không biết! Ngươi chính là tiện nhân của nhà thám hoa ở ngõ Tỳ Bà, còn mang theo con bé tiểu tiện chủng kia, chẳng phải đều là đồ Giang gia không cần nữa sao?!”
“Nữ nhân đoan chính nào lại đi rèn sắt? Ngươi chỉ dựa vào thân phận khác người, đi khắp nơi câu dẫn nam nhân, cướp mất cơ hội làm Võ Trạng Nguyên của con ta!”
Bên ngoài lập tức có người vây xem, bàn tán xôn xao.
Tên râu quai nón này là Chu Thiết Tượng ở đại nhai phía Nam, con hắn – Chu Thủy Sinh – từng học cùng thư viện với ta.
Chu Thủy Sinh tuy có chút tài cưỡi ngựa, đấm đá miễn cưỡng coi như qua, nhưng lại giao du toàn bạn bè hư hỏng.
Khi thư viện tổ chức khảo thí tuyển chọn lớp Thiên Tự, hắn thi cử thất bại, cả luận sách lẫn cử tạ đều không đạt chuẩn.
Chu Thiết Tượng nước bọt tung bay, nhưng Xuân Phong chẳng thèm để ý, chỉ xoay người vào trong viện.
Ta thấy thằng bé Chu Thủy Sinh cúi mặt rụt cổ, trốn sau đám đông, liền kéo thẳng hắn ra:
“Ngươi nói ta cướp cơ hội của ngươi? Nực cười! Ngay cả cửa lớp Thiên Tự ngươi còn chưa chạm tới!”
“Ngươi đừng có lôi con ta vào! Nó là đầu bảng của lớp Thiên Tự! Mỗi mùa đều mang cờ thưởng về! Còn ngươi, chỉ là một tiện nhân lên trèo giường mà thôi!”
“Nói láo! Cờ thưởng của bọn ta đều có ấn ký của học chính!”
Ta xoay người như gió lốc, vọt vào phòng, cầm lấy cờ thưởng của mình, giơ lên cho học chính vừa tới xem xét.
Học chính của thư viện cũng được mời đến. Chu Thủy Sinh vì muốn moi thêm bạc từ cha hắn, bịa ra lời dối trá về việc học lớp Thiên Tự, còn bảo bị ta mạo danh, kết quả bị vạch trần ngay tại chỗ.
Chu Thủy Sinh vừa lùi bước vừa cãi lại cha hắn:
“Nếu không phải tại cha cứ mơ giữa ban ngày, ép con học võ, ngay cả chút bạc cũng keo kiệt, ngay cả xin thêm tiền cũng khó khăn!”
Mọi người xung quanh cười ầm lên. Lúc này, Xuân Phong mới nhàn nhã xách cung tiễn bước ra:
“Ồ? Đã xong rồi sao?”
“Người đừng lo, nương! Ta đã dẹp yên hết thảy rồi!” Ta vỗ ngực nói với bà.
“Có con ở đây, ta đương nhiên không sợ.” Xuân Phong cười, từ sau lưng lấy ra một bộ cung tiễn.
“Nhìn con sát khí đằng đằng mà tay không ra ngoài, ta liền đi chọn giúp con một bộ binh khí vừa tay.”
Ta nhận lấy cung, giương lên bắn một mũi. Tiếng rít xé gió vang lên, mũi tên xuyên qua ống quần của Chu Thiết Tượng, đóng hắn chặt xuống đất một cách nhục nhã.
“Chà! Trân Trân, ngươi nghỉ đông mà vẫn không lười biếng chút nào nhỉ?”
Vị tiên sinh đang chọn đồ trong cửa hàng ta, ngẩng đầu khen ngợi.
Ta cười cười, bước đến bên cạnh Chu Thiết Tượng, rút tên ra, chỉ vào hắn:
“Ngươi dám bôi nhọ danh tiết của mẫu thân ta, bảo nương ta là quả phụ, mau quỳ xuống dập đầu xin lỗi!”
Xuân Phong đứng một bên, sắc mặt vẫn ung dung, vừa trò chuyện với láng giềng vừa đắc ý khoe:
“Xem con gái ta kìa! Quả là lợi hại!”
Chu Thiết Tượng chống tay bò lùi hai bước, sau đó lồm cồm đứng dậy.
Hắn không những không xin lỗi, mà còn gào như chó dại:
“Xin lỗi? Đúng đúng đúng, bà ta đâu chỉ là quả phụ, mà còn là kỹ nữ!”
“Còn dám nói bậy!”
Ta tức giận, định đâm thẳng mũi tên vào đầu hắn, nhưng bàn tay đã bị Xuân Phong giữ chặt.
Bà kéo ta vào cửa tiệm, nhẹ giọng khuyên nhủ:
“Hắn bây giờ chẳng còn gì để trông cậy, con chớ nên tranh đấu với kẻ như thế. Nếu con gi/ết hắn lúc này, chẳng phải là giúp hắn giải thoát sao?”
Ta ép bản thân đè nén cơn tức, xoay người đi vào trong.
Nhưng sau lưng, hắn vẫn tiếp tục chửi rủa.
Đến khi hắn gào lên:
“Ngươi cũng chỉ là đứa con hoang không có cha!”
Ta quay phắt lại, hét lên với hắn, cũng là nói cho đám người đầy ác ý xung quanh nghe rõ:
“Ta có cha! Phụ thân ta là Thiếu Tướng quân bình định loạn Lâu Thành! Là tri kỷ của Thái Tử!”
“Hahaha! Nếu cha ngươi là tri kỷ của Thái Tử, thì ta chính là phụ thân của Ngọc Đế!”
“Oh?”
Giữa đám đông, bỗng vang lên một giọng nói:
“Ta lại không biết rằng Ngọc Đế ở nhân gian còn có phụ thân?”
Hai hàng thị vệ oai phong lẫm liệt tản ra tạo thành một lối đi, mấy vị đại nhân vận triều phục đứng nghiêm kính cẩn bên cạnh người vừa cất lời.
Người nọ khoác một bộ bạch bào, nơi ngực có thêu hoa văn rồng năm móng bằng chỉ kim tuyến, không giận tự uy, khí chất bất phàm. Hắn cầm trong tay một chuỗi ngọc châu, khóe mắt ẩn nét tiếu ý, nhẹ giọng hỏi vị tri phủ đứng phía sau:
“Tri phủ Bính đại nhân, không ngờ trong địa giới ngươi cai quản lại có nhân vật thần tiên như vậy, sao còn chưa mau mau giới thiệu cho bản cung?”
Tri phủ vội bước lên trước, quát lớn về phía Chu thiết tượng:
“Ngươi từ đâu đến mà dám ăn nói hồ đồ, vô lễ với Thái tử điện hạ?”
Quyền lực quả nhiên là thứ hay ho, chỉ một lời liền có thể trị dứt cơn điên của lũ chó hoang.
Chu thiết tượng, giống như bao người khác, quỳ rạp xuống đất, câm nín như gà gỗ.
Nhưng đứa con ngu ngốc của hắn lại bất ngờ bò ra, tự tay đẩy cha mình vào chỗ ch/ết:
“Bẩm đại nhân, có kẻ dám buông lời xúc phạm Thái tử, nói rằng cha hắn và Thái tử là huynh đệ!”
Ta kề cận bên Xuân Phong, cắn chặt môi, kiềm lại cơn xúc động.
Chợt, một bóng dáng thong dong tiến đến trước mặt ta và mẫu thân, cất giọng ôn hòa:
“Chủ nhân của Xuân Phong Thiết Nghệ, có phải là ngươi?”
“Chính là dân nữ.” Xuân Phong cúi đầu hồi đáp, thần sắc bình tĩnh.
Bàn tay đang cầm chuỗi ngọc vươn ra trước mặt chúng ta, Xuân Phong vội vàng kéo ta đứng dậy.
Nhìn rõ dung mạo người kia, ta bất giác sững sờ. Hắn có vài phần tương tự với Tôn Hồ Ly. Nét cười ôn hòa vẫn còn nơi đáy mắt, hắn chắp tay nói với đám quan viên:
“Tiểu chất nữ này nói không sai. Phụ thân nàng – Tôn Giác, đích thực là biểu huynh của bản cung. Chúng ta từ nhỏ đã cùng nhau lớn lên, tình như thủ túc.”
Đám đông xôn xao, ta hít sâu một hơi lạnh.
“Biểu huynh gần đây đang thay phụ hoàng giải ưu, thật sự không thể rời đi. Bản cung nghe nói Hoài Dương có nhiều danh trù, vừa hay muốn tìm một vị đầu bếp cho mẫu hậu, nhân tiện đón tẩu tẩu cùng chất nữ hồi kinh.”
Các quan viên vội gật đầu phụ họa, ca ngợi không ngớt.
Nương ta mỉm cười, cúi người tạ ơn.
Thái tử đi đến trước mặt ta, giọng điệu dịu dàng mà kiên nhẫn:
“Trân Trân, biểu thúc không trễ hẹn với cha ngươi đấy chứ?”
Những giọt lệ nóng hổi rơi trên mũi hài, ta xoay người chạy vội vào trong phòng, hoàn thành phần dang dở cuối cùng.
Mùa xuân đã về. Gió xuân nhẹ lướt qua cánh đồng, khiến những bông hoa cải dầu bên bờ hồ bung nở rực rỡ.
Ta cùng Xuân Phong mang theo mèo nhỏ, ngồi trên đại thuyền của Thái tử, men theo kênh đào tiến về kinh thành!
Gió xuân ấm áp phả vào mặt, khiến lòng người cũng say theo. Ta tựa vào lan can, ngắm phong cảnh ven bờ, lắng nghe Thái tử cùng Xuân Phong kể lại ngọn ngành mọi chuyện.
Ngự sử bị triệu hồi về kinh, bởi đã có người dâng mật tấu.
Mật tấu ấy nói rằng năm xưa khi triều đình thanh trừ phản loạn Trung Sơn quốc, chính Thái tử đã ngầm hạ lệnh cho lão Trịnh Quốc công quá cố, âm thầm phóng thích thế tử của Trung Sơn vương, vì vậy triều đình mới không thể tìm thấy khoáng sản Ô Thủy.
Hoàng đế vốn đa nghi, chuyện phế lập Thái tử lại nhiều phen trắc trở, lập tức triệu hắn nhập cung đối chất.
Nhưng Lưu đại nhân lão luyện chốn quan trường, lại có Ninh vương thổi gió bên tai, rốt cuộc Thái tử bị giam lỏng.
Ngay lúc này, con trai của lão Trịnh Quốc công – kẻ đã mất tích nhiều năm, Tôn Giác, đột nhiên hồi kinh!
Hắn cùng mẫu thân là Đại Trưởng Công Chúa dâng đơn kiện, muốn rửa oan cho phụ thân.
Cuối cùng, đôi bên tranh luận khó phân cao thấp, Tôn Giác bất ngờ xuất ra hai quyển sổ sách dày cộp:
“Bệ hạ, chuyện phóng thích thế tử, thật giả chưa rõ, nhưng chuyện hiện nay không dùng khoáng Ô Thủy, vi thần có biện pháp bù đắp quốc khố trống rỗng và quân phí tiền tuyến.”
Hai quyển sổ ghi chép rõ ràng mối giao dịch hối lộ giữa Lưu đại nhân và thành chủ Lâu Thành suốt bao năm qua, số tiền khổng lồ khiến người người bàng hoàng.
Hoàng đế giận dữ, lập tức hạ lệnh tịch thu toàn bộ gia sản nhà họ Lưu.
Mà nhà họ Lưu quả thật như núi vàng biển bạc, ngay cả dưới đáy ao cá cũng chôn giấu mấy chục rương kim ngân.
Nhìn thấy danh sách tịch thu, hoàng đế tức đến ngất xỉu, tỉnh dậy liền hạ chỉ, không chỉ tịch biên gia sản, mà còn tru di tam tộc!
Lúc này, Tố Tiên bưng mấy bát mì lươn đến, cắt ngang lời kể của Thái tử.
Nàng được Xuân Phong tiến cử, sắp tới sẽ vào cung làm trù nương cho Hoàng hậu.
Ta nghe đến mê mẩn, không khỏi thắc mắc:
“Thái tử biểu thúc, vậy còn Giang đại nhân – kẻ đã cưới con gái của Lưu đại nhân thì sao?”
“Vị thám hoa đó ư?”
Hắn gắp một đũa lươn vàng, cười mà thâm ý khó lường:
“Ninh vương yêu người hiền tài, hết lòng bảo vệ, rốt cuộc chỉ bị giáng xuống Binh Bộ, làm một vị tư vụ tòng cửu phẩm mà thôi.”